Phụ nữ dù ở thành phần xã hội nào cũng có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của một đất nước. Từ xưa đến nay, họ luôn phải chịu những định kiến xã hội và những thủ tục lạc hậu, điển hình là thuyết tam tòng, tứ đức. Bài viết dưới đây sẽ cung cấp thông tin về lý thuyết này.
1. Thế nào là tam tòng, tức là giới hạnh?
1.1. Tam tông là gì?
“Tam phục” có nguồn gốc từ Lễ, Tang Phục, Tử Hạ truyện: Hiền phụ mẫu tử tuân nghĩa, bất hiếu chi đạo, hậu giá phục cha, xuất giá tòng phu, tử tòng. đi theo con trai. Tam tòng bao gồm ba điều mà người phụ nữ phải thực hiện suốt cuộc đời từ khi còn nhỏ cho đến khi về già: Ở nhà vâng phục cha, gả chồng và nối dõi tông đường.
Ở rể nghĩa là sống ở nhà nội từ nhỏ đến lớn, người con gái hiếu thảo phải tuân theo lời dạy của cha, nhất là trong việc thu xếp hôn nhân gia đình.
Lấy chồng có nghĩa là người phụ nữ khi lấy chồng phải vâng lời chồng, nghe theo lời chồng, không được cãi cọ. Đó là sự bất bình đẳng lớn giữa vợ và chồng.
Chồng chết nghĩa là mẹ phải nghe theo lời con. Điều này cũng thể hiện cái nhìn bất bình đẳng đối với phụ nữ. Cả đời họ không ngóc đầu lên được, dù chồng đã chết, con đã trưởng thành.
2.2. đức hạnh là gì?
Tứ đức bắt nguồn từ Chu Lệ, Thiên Quân chúa: Cửu Tần là học Pháp, Cửu Giáo là: phụ đức, phụ ngữ, phụ dung, phụ công. Tứ đức bao gồm những đức tính nhất định mà người phụ nữ phải có. Đó là: công đức, khoan dung, ngôn ngữ và hạnh phúc.
1) 婦功 (Phụ công): Phụ nữ việc nước, việc nhà phải khéo léo. Tuy nhiên, những nghề với phụ nữ trước đây chủ yếu là may vá, thêu thùa, dệt vải, nấu nướng, buôn bán, với những phụ nữ giỏi giang thì thi cử nhiều hơn;
2) 婦容 (Chiếm đoạt): dáng người phụ nữ phải nhẹ nhàng, gọn gàng, tôn trọng hình dáng của chính mình;
3) 婦言 (Phụ ngữ): lời nói nhẹ nhàng, dịu dàng, mềm mại.
4) 婦行 (Nuôi dạy con): Tính nết hiền lành, việc nhà dịu dàng, kính trên nhường dưới, kính chồng thương con, chung sống hòa thuận với anh em họ hàng nhà chồng, ra ngoài nhu mì, chín chắn, không hợm hĩnh ranh mãnh hay độc ác..
2. Nguồn gốc thuyết tam tòng, tứ đức ở Việt Nam:
Khổng Tử trước đây đã lấy thuyết “Tam cương ngũ thường” và “Tam tòng tứ đức” làm chuẩn mực cho mọi hoạt động chính trị, an sinh xã hội và gia đình phong kiến. Thuyết này được truyền bá từ Trung Quốc sang Việt Nam và vào thời nhà Hán; có ảnh hưởng lớn đến giới quan lại và các gia đình quý tộc ở Việt Nam.
Nội dung tam tòng, tứ đức trong Nho giáo Việt Nam được thể hiện trong nhiều bài Gia Hả Ca, trong các bộ luật thời phong kiến. Nhìn chung, nội dung tam tòng, tứ đức của Nho giáo Việt Nam không khác nhiều so với Nho giáo Trung Quốc.
Như vậy, Nho giáo đã ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống xã hội các nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Điều đáng chú ý là khi Nho giáo vào Việt Nam, nó đã được biến đổi một số nội dung hay nói cách khác là được “làm mềm” và “thông” cho phù hợp với đời sống người Việt. Vì vậy, ở Việt Nam, tính tiêu cực của học thuyết tam tòng đã giảm đi nhiều so với Nho giáo Trung Quốc.
3. Tam tòng tứ đức trong văn hóa cổ đại:
Nhìn chung, nội dung cơ bản của thuyết tam tòng, tứ đức là những quy định khắt khe dường như bắt buộc cuộc sống của người phụ nữ Việt Nam. Về nhiều mặt, thuyết này đã có ảnh hưởng lớn đến quan niệm xa xưa của ông cha ta nên bên cạnh những tác động tiêu cực, nó cũng mang lại những tác động tích cực nhất định.
Trong quá trình phát triển lịch sử, những quy định khi du nhập vào Việt Nam được hiểu một cách rất khắt khe, dường như là sợi dây siết chặt cuộc đời người phụ nữ. Cộng với những định kiến xã hội “trọng nam, khinh nữ” đã khiến số phận người phụ nữ càng thêm nghiệt ngã, lệ thuộc. Bởi lẽ, cả cuộc đời họ phải sống lệ thuộc, lệ thuộc vào những quyết định mà người khác giao cho họ. Phụ nữ không có quyền lực hay tiếng nói để bảo vệ cuộc sống của họ. Nội dung thuyết “tam tòng” thể hiện rõ sự đối xử bất bình đẳng đối với người phụ nữ trong gia đình; đối với phụ nữ họ phải phục tùng đàn ông như cha, chồng, con.
Nhìn chung, quan niệm tam tòng tứ hải tước đi quyền bình đẳng của phụ nữ trong suốt cuộc đời từ trẻ đến già. Thuyết “tam tòng” chỉ hạn chế trách nhiệm của phụ nữ đối với gia đình, không tham gia vào công việc xã hội. Người phụ nữ làm lụng vất vả, học hành không được, phải lao động nhiều, nhất là phải làm việc nhà, nuôi dạy con cái, hoàn toàn phục tùng sự chỉ đạo của cha, chồng và con đã lớn. khi chồng bà qua đời. Tuy nhiên, dù cuộc đời có khắc nghiệt, vùi dập, cướp đi của họ tất cả nhưng người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn tỏa sáng với những phẩm chất cao quý vốn có của mình: đức, lòng bao dung, lời nói và cách ứng xử.
Ngày nay, khi đất nước đã phát triển, những quan niệm xưa cũ, lạc hậu đã bị xóa bỏ và thay vào đó là những chính sách ưu đãi dành cho phụ nữ. Họ đã thoát khỏi sự kìm kẹp của thuyết tam tòng tứ hải dẫn đến bình đẳng giới. Luật pháp đã không ngừng thay đổi để mọi người đều bình đẳng và có quyền như nhau. Nhưng cái hay của thuyết “tứ đức” vẫn còn nguyên giá trị. Trong bất kỳ xã hội nào, phụ nữ nên có những phẩm chất đó. Điều này cũng sẽ góp phần hun đúc những phẩm chất đạo đức truyền thống quý báu của người phụ nữ Việt Nam: đức tính kiên nhẫn, đức hy sinh, cần cù, chịu khó; chung thủy, thủy chung, hết lòng vì chồng con; vị tha, nhân hậu, giản dị, trọng tình trọng nghĩa; ngoan đạo; hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích gia đình, dòng tộc… Đồng thời, cũng góp phần răn dạy người phụ nữ hoàn thiện đời sống cá nhân theo chuẩn mực tài đức, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội. hiện đại và hội nhập. Phụ nữ hoàn toàn có thể không chỉ quán xuyến công việc gia đình mà còn tham gia các công việc xã hội, góp phần vào sự phát triển và tiến bộ của xã hội. Và có một điểm thú vị là, nếu như ở xã hội xưa, người phụ nữ chung thủy nhất vẫn có thể gặp bi kịch như thường thì thì ở xã hội hiện đại ngày nay, trước việc đòi hỏi quyền bình đẳng, các chị em hãy thử nhìn vào những quy định trên xem được bao nhiêu phần bạn có. Giữ gìn và phát huy tinh thần tự phê bình ấy có lẽ sẽ góp phần hoàn thiện và xây dựng hình ảnh tốt đẹp về người phụ nữ mà nam giới cũng như xã hội mặc nhiên thừa nhận và tôn trọng.
4. Những yếu tố ảnh hưởng đến thuyết tam tòng, tứ đức trong xã hội hiện nay:
Đầu tiên, Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà nước ta lấy chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hoạt động cách mạng.
Thứ hai, Dần dần, vai trò của phụ nữ đã được thế giới công nhận, nhân dân các nước ủng hộ và tôn vinh họ.
Thứ ba, Bình đẳng giới đang được các quốc gia trên thế giới coi trọng. Bản thân nam giới cũng như phụ nữ đã có những suy nghĩ, đánh giá về vị trí, vai trò của phụ nữ theo hướng tiến bộ hơn trước. Đặc biệt là trong tâm trí của phụ nữ. Họ đã sống và có những suy nghĩ tích cực hơn, không bị những định kiến xã hội đè nặng.
Thứ Tư, Trong cuộc kháng chiến lịch sử, phụ nữ Việt Nam là nhân tố vô cùng quan trọng góp phần làm nên thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và công cuộc Đổi mới của đất nước từ năm 1986 đến nay.
Như vậy, đối với Việt Nam, lịch sử đã chứng minh, phụ nữ Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc đã có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và có nhiều đóng góp to lớn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Ngày nay, Việt Nam đang trên đà hội nhập với thế giới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tiếp nối truyền thống vẻ vang đó, phụ nữ Việt Nam đã và đang vượt qua mọi khó khăn, thử thách, thậm chí cả những định kiến để vươn lên, tiếp tục có những đóng góp tích cực cho công tác xã hội và giữ vững tầm ảnh hưởng của mình. trên nhiều lĩnh vực khác nhau như: tham gia quản lý nhà nước, tham gia công tác xã hội, tham gia xóa đói giảm nghèo, xây dựng gia đình hạnh phúc…
Chuyên mục: Bạn cần biết
Nhớ để nguồn bài viết: Tam tòng tứ đức là gì? Tam tòng tứ đức trong văn hóa xưa nay? của website thcstienhoa.edu.vn