Tại sao Lý Thường Kiệt lại chủ động giảng hòa với nhà Tống?

Trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075-1077), Lý Thường Kiệt có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức cũng như lãnh đạo toàn quân, dân ta đánh giặc, giữ nước. Lý Thường Kiệt giảng hòa với quân Tống để ngăn quân Tống đem quân sang xâm lược nước ta một lần nữa, đồng thời cũng đảm bảo mối thâm giao hiếu nghĩa giữa hai nước. Để hiểu rõ hơn về biện pháp ngoại giao này của Lý Thường Kiệt, mời các bạn tham khảo bài viết dưới đây.

1. Vì sao Lý Thường Kiệt chủ động cầu hòa với nhà Tống?

Lý Thường Kiệt có vai trò hết sức quan trọng trong cuộc kháng chiến chống Tống từ năm 1075 đến năm 1077. Ông trực tiếp tổ chức và lãnh đạo toàn quân, dân ta chống giặc ngoại xâm.

Lý Thường Kiệt đã khéo léo sử dụng các chiến thuật dân gian như tập kích, phục kích, đánh bất ngờ nên đã đánh bại nhanh chóng hàng loạt cứ điểm của quân Tống.

Nhìn vào tình hình thực tế, ông cũng rất linh hoạt trong việc thay đổi chiến thuật cho phù hợp. Trong trận đánh Ung Châu, đây là cứ điểm chính của quân Tống, ông đã kết hợp đánh mạnh bằng nhiều chiến thuật khác nhau: đào hầm từ dưới đất lên, dùng tên lửa đốt phá doanh trại. kẻ thù và đắp đất cao bằng bức tường để leo lên.

Tháng 3 năm 1076, quân ta tiêu diệt ba cứ điểm lớn của giặc là Ung Châu, Khâm Châu, Liêm Châu. Quân Lý thực hiện kế hoạch tiêu diệt quân lương, buộc quân Tống phải hoãn kế hoạch tấn công Đại Việt.

Lý Thường Kiệt chủ trương lấy công kết hợp với thủ nên sau thắng lợi bước đầu, Lý Thường Kiệt đã rút quân, xây dựng phòng thủ kiên cố, sẵn sàng nghênh địch.

Dựa vào điều kiện địa hình phức tạp sông núi, đèo dốc hiểm trở, sông rộng sông sâu, Lý Thường Kiệt quyết định xây dựng phòng tuyến trên cả tuyến đường bộ và đường thủy. Trong đó, sông Như Nguyệt là tuyến phòng thủ chính. Những trận chiến nơi đây đã mang lại cho quân dân Đại Việt chiến thắng vang dội.

Khi quân Tống đến bờ bắc sông Như Nguyệt thì đợi thuỷ quân nhưng chưa tấn công ngay. Tuy nhiên, quân ta đã chặn đánh cánh thủy quân trong trận Đông Kênh và không thể tiến sâu vào Đại Việt như kế hoạch.

Xem thêm bài viết hay:  Bài thu hoạch cảm tình Đảng và hướng dẫn cách viết chuẩn

Quân Tống không đợi thủy quân đến, hai lần tổ chức tấn công các ải trên sông Như Nguyệt, nhưng đều thất bại thảm hại.

Sau hai tháng chờ giặc, Lý Thường Kiệt mở cuộc phản công, tiến công và giành thắng lợi lớn.

Sau khi quân ta đại thắng trên sông Như Nguyệt, Lý Thường Kiệt biết quân Tống đang lâm vào thế bế tắc, nhân dân phương Nam cũng đang chịu cảnh chiến tranh triền miên nên Lý Thường Kiệt đã cử sứ sang “giảng hòa” cho quân Tống. rút chạy, Quách Quỳ nhanh chóng chấp nhận hòa hoãn và rút quân ra khỏi nước ta.

=> Đây là biện pháp ngoại giao mềm dẻo của Lý Thường Kiệt để tránh sau này quân Tống sang xâm lược nước ta một lần nữa và quan hệ ngoại giao giữa hai nước cũng được đảm bảo.

2. Bài hát thứ hai – Chiến tranh Việt Nam:

Đây là cuộc chiến giữa nhà Lý của Đại Việt và nhà Tống của Trung Quốc (1075-1077). Giai đoạn 1 (1075-1076), Lý Thường Kiệt chủ động đánh sang đất Tống với lực lượng 10 vạn quân, đánh phá thành Ung Châu. Giai đoạn sau (1076-1077), quân Lý rút về cố thủ trước cuộc phản công của quân Tống do Quách Quỳ chỉ huy với lực lượng 3 vạn người, chủ yếu là binh lính và nông dân. Cuộc chiến rơi vào bế tắc, sau đó quân Tống rút khỏi lãnh thổ Đại Việt sau cuộc đàm phán giữa hai bên.

3. Hoàn cảnh lịch sử:

Năm 1009, Lý Công Uẩn lên ngôi vua, lập ra triều đại nhà Lý. Năm 1010, dời đô từ Hoa Lư về thành Đại La, đổi tên là Thăng Long. Nhà Lý đã gả công chúa cho thủ lĩnh một số dân tộc thiểu số, chủ yếu là người Tày ở miền núi nhằm xây dựng và củng cố mối quan hệ với họ. Chính sách này nhằm tăng cường khả năng phòng thủ ở khu vực phía Bắc. Trải qua bốn triều vua Lý Thái Tổ, Lý Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Nhân Tông, đất nước Đại Việt đã phát triển ổn định và ngày càng lớn mạnh.

Ở phương Bắc, từ năm 960, khi nhà Tống thành lập, phải khắc phục hậu quả của sự phân chia thời Ngũ Đại Thập Quốc. Không chỉ phải đánh bại các nước cát cứ, nhà Tống còn phải đối phó với phía bắc nước Liêu, quốc gia của người Khiết Đan rất mạnh. Từ năm 936 ở phương bắc, nước này bị vua Hậu Tấn cắt cho 16 tỉnh Yên Vân nên lãnh thổ rộng lớn hơn và mở rộng về phía Trung Quốc, cũng nhân cơ hội đó thường xuyên can thiệp vào Trung Nguyên. . Cho đến thời Tống Thái Tông, mặc dù đã diệt hết các nước trong Thập quốc nhưng đối với nhà Tống, những nguy cơ từ nhà Liêu vẫn tiềm tàng đe dọa.

Xem thêm bài viết hay:  Hàng tiêu dùng là gì? Danh mục các loại mặt hàng tiêu dùng?

Bước sang đời vua Tống Nhân Tông, nhà Tống lại phải chịu thêm sự uy hiếp từ phía Tây Bắc nước Tây Hạ của Tương Đảng mới nổi. Rất nhiều của cải và lãnh thổ mà nhà Tống phải cống nạp và chia cho hai nước Liêu và Tây Hạ. Trong nước, những cải cách của Vương An Thạch càng khiến triều đại nhà Tống bối rối. Với chủ trương tấn công các nước phía Nam Trung Quốc để giải tỏa căng thẳng cũng trở thành sách lược của nhà Tống.

4. Nêu cách đánh độc đáo của Lý Thường Kiệt chọn trên phòng tuyến Như Nguyệt:

Lối đánh độc đáo của Lý Thường Kiệt chọn trên phòng tuyến Như Nguyệt trong cuộc kháng chiến chống Tống (1075 – 1077):

– Quân ta đang ở thế chủ động tiến công địch đẩy địch vào thế bị động. Chọn sông Như Nguyệt xây phòng tuyến kiên cố.

– Lấy bài thơ “Nam quốc sơn hà” để đánh vào tâm lý địch.

– Nhân lúc địch ở thế yếu, ông chủ động mở cuộc tấn công quy mô lớn vào tiền tuyến của địch.

– Tích cực dùng các biện pháp mềm dẻo, hiệp thương chấm dứt thù địch, đề nghị “hoà giải” để hạn chế tổn thất của ta.

5. So sánh hai cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược:

Hai cuộc kháng chiến chống quân Tống xâm lược trong lịch sử nước ta là: Cuộc kháng chiến chống quân Tống thời Lê sơ và cuộc kháng chiến chống quân Tống thời nhà Lý.

Như nhau: Cả hai cuộc kháng chiến đều chung một kẻ thù là quân Tống

Khác biệt:

Tiêu chuẩn Cuộc kháng chiến chống Tống thời Tiền Lê Cuộc kháng chiến chống Tống Lý Thời gian Năm 981 Từ 1075 đến 1077 Lãnh đạo Lê Hoàn Lý Thường Kiệt Tình hình trước cuộc kháng chiến Nhà Đinh vừa sụp đổ, một số quan lại trong triều nổi dậy muốn tái lập nhà Đinh. Lý Công Uẩn dựng nên nhà Lý được 66 năm. Bộ máy nhà nước được củng cố, nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển. Lý do Nhà Tống thấy Đại Việt suy yếu nên tổ chức chiến tranh với âm mưu xâm lược nước ta. Nhà Tống tổ chức chiến tranh xâm lược để dùng thắng trong ngoài. Tạo uy tín tại nhà và khắc phục sự cố tại nhà. phát triển
Xem thêm bài viết hay:  So sánh sự khác nhau và giống nhau giữa nội lực và ngoại lực

– Ở thế bị động chờ địch vào bày trận

– Dựng lũy ​​phòng thủ kiên cố, đóng cọc trên sông Bạch Đằng, nhưng trận chiến kéo dài rời rạc. Không bằng chiến thắng trên sông Bạch Đằng. Không có sự phối hợp tốt giữa các đội quân. Nhưng quân ta vẫn giành được thắng lợi do Lê Hoàn chỉ huy.

– Giết tướng Hầu Nhân Bảo.

– Chủ động tấn công địch, sau đó phòng thủ và xây dựng phòng tuyến.

– Sức mạnh của tác chiến phục kích được phát huy. Có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các cánh quân.

– Tướng Quách Quỳ còn sống (Quốc Quỳ rút quân vì không thể kéo dài chiến tranh).

Kết quả Kháng chiến chống Tống toàn thắng. Kháng chiến chống Tống toàn thắng. Buộc quân Tống phải bỏ mưa xâm lược Đại Việt.

Bình luận:

– Thắng lợi của các cuộc kháng chiến đã đập tan âm mưu xâm lược của phong kiến ​​phương Bắc.

– Các cuộc kháng chiến chống Tống thắng lợi đã củng cố vững chắc chính quyền phong kiến, tạo điều kiện để đất nước ta phát triển về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Nâng cao lòng tin của nhân dân với hoàng gia.

Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến chống Tống đã thể hiện tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc ta. Bảo vệ thành quả của tổ tiên trong công cuộc dựng nước, giữ vững độc lập, chủ quyền của dân tộc.

– Cuộc kháng chiến đã để lại nhiều bài học quý báu cho dân tộc ta trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước sau này.

Chuyên mục: Bạn cần biết

Nhớ để nguồn bài viết: Tại sao Lý Thường Kiệt lại chủ động giảng hòa với nhà Tống? của website thcstienhoa.edu.vn

Viết một bình luận