Sự tích Quan Âm Bồ Tát? Quan Âm Bồ Tát là nam hay nữ?

Quán Thế Âm hay Quán Thế Âm trong tiếng Phạn có nghĩa là “Người quán sát âm thanh của thế giới” là một vị Bồ tát hiện thân cho lòng từ bi của tất cả chư Phật. Quán Thế Âm Bồ tát luôn được nhắc đến như một vị Phật đại diện cho tấm lòng từ bi, hỷ xả. Ngài che chở, bảo vệ chúng sinh vượt qua gian nan, khổ đau. Thờ cúng Ngài đã lâu nhưng không nhiều người biết Bồ Tát Quán Thế Âm là ai. Mời các bạn theo dõi bài viết dưới đây để giải đáp thắc mắc trên.

1. Bồ tát Quan Thế Âm là ai?

Theo Kinh A Di Đà, Quán Thế Âm Bồ Tát cùng với Đại Thế Chí Bồ Tát là thị hiện phụ của Phật A Di Đà, nhận danh hiệu Đại Bi Bồ Tát:

– Đại từ bi nghĩa là thương người bao la.

– Quán có nghĩa là xem xét, suy ngẫm

– Có nghĩa là Thế giới

– Yin là cầu nguyện

Danh hiệu Quán Thế Âm Đại Bi thể hiện đức tính thương người, luôn lắng nghe những lời cầu xin cứu giúp của chúng sinh của Bồ tát Quán Thế Âm.

Lễ vía Bồ tát Quán Thế Âm thường được tổ chức ở nhiều chùa vào các ngày sau hàng năm:

19 tháng 2: Giáng sinh

19 tháng 6: Lễ Giác Ngộ

19/09: Lễ xuất gia

2. Truyền thuyết Bồ tát Quán Thế Âm:

Trong đời sống tâm linh của người Việt, hình tượng Bồ Tát Quán Thế Âm gắn liền với câu chuyện Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện.

2.1. Quan Âm Thị Kính:

Mẹ Quán Thế Âm trải qua nhiều thân phận để cứu độ chúng sinh. Ở kiếp thứ 10, cô hóa thân thành Thị Kính, một người phụ nữ họ Mang ở Goryeo (nay là bán đảo Triều Tiên). Lớn lên trong một gia đình giàu truyền thống, Thị Kính vừa tài giỏi vừa hiếu thảo với cha mẹ. Lớn lên, nàng kết hôn với Thiện Sĩ, một nhà Nho, xuất thân từ một gia đình họ Tống trong vùng.

Sau khi về làm dâu, Thị Kính tiếp tục hiếu kính cha mẹ chồng, giữ đạo con gái trong nhà. Một hôm, khi đang khâu vá, bà nhìn thấy chồng mình đang đọc sách ngủ gật. Thấy râu trên cằm chồng, chị định dùng nhíp nhổ. Thiện Sĩ giật mình tỉnh dậy, thấy vợ kề dao vào cổ, la hét vì tưởng Thị Kính định giết mình.

Dù đã giải thích với nhà chồng nhưng trước sức ép của ông bà nội Sùng Thiện Sĩ đã đuổi vợ ra khỏi nhà. Thị Kính bỏ nhà chồng, quy y cửa Phật. Cô cải nam trang trốn vào chùa đi tu và lấy pháp danh là Kính Tâm.

Vẻ ngoài xinh đẹp tự nhiên, cải trang thành nam giới nên được nhiều tín đồ nữ đến chùa để ý. Trong số đó có Thị Màu, con gái của thần bảo hộ vùng. Với bản tính hào sảng, Thị Mầu nhiều lần tìm cách đến gần để trêu chọc Kính Tâm nhưng đều bị từ chối. Chẳng bao lâu, Thị Mầu có thai với một người hầu trong nhà. Khi Thái lớn lên, Thị Mầu bị bắt về làng tra khảo. Hốt hoảng, Thị Mầu tuyên bố Kính Tâm là cha của thai nhi. Dù đã kêu oan nhưng vì không thể vạch trần thân phận nam giả của mình, Kính Tâm đành phải ra về. Lại nói Thị Mầu sinh con trai, gửi cho Kính Tâm nuôi nấng.

Xem thêm bài viết hay:  Ngoại tình là gì? Ngoại tình có tội không? Cách xử lý ngoại tình?

Với bản tính thương người, Kính Tâm đã nhận đứa bé làm con nuôi. Thời gian trôi qua thật nhanh cho đến khi bé được 3 tuổi thì Kính Tâm lâm bệnh. Biết mình không qua khỏi, Kính Tâm viết thư kể lại sự tình cho cha mẹ. Sau khi Kính Tâm qua đời, người dân nhận ra nỗi oan của Kính Tâm và lập đàn cầu đảo.

2.2. Quán Âm Diệu Thiện:

Diệu Thiện tương truyền là con gái thứ ba của vua. Dù sống xa hoa nhưng khác với hai người chị, công chúa luôn quan tâm đến người nghèo và hướng tâm về Phật giáo.

Khi trưởng thành, công chúa biết được cha mình đã có ý kén rể nên quỳ xuống xin được xuất gia. Dù đã dùng nhiều cách thuyết phục nhưng cha anh vẫn không thể khiến Diệu Thiện thay đổi quyết định. Nhà vua giả vờ đồng ý cho công chúa xuất gia, đồng thời nói với sư trụ trì tìm cách khiến công chúa trở lại trần gian. Tuy nhiên, trong thời gian tu học trong chùa, công chúa đã được tạo điều kiện thuận lợi để nghiên cứu về Phật pháp.

Vua nghe chuyện, giận lắm, sai lính đốt chùa. Trong ngọn lửa, Ni sư Diệu Thiện chắp tay kết búp sen và thành tâm cầu nguyện chư Phật, Bồ tát. Đột nhiên, bầu trời trở nên nhiều mây và ngọn lửa phải được dập tắt bằng một trận mưa lớn.

Nhà vua ra lệnh tống giam ni cô Diệu Thiện và quyết định xử trảm. Trong khi đao phủ đang cầm dao, một con hổ trắng bất ngờ chạy vào và mang ni cô đi.

Ni sư Diệu Thiện trong giấc mơ thấy một con cọp trắng đưa bà xuống địa ngục. Tại đây cô gặp phải nhiều hình phạt tội nhân phải gánh chịu khi còn sống. Ni cô chắp tay cầu nguyện cứu độ tất cả chúng sinh đang chịu hình phạt nặng nề. Sau khi tỉnh dậy, ni cô tiếp tục tu hành để giác ngộ và cứu độ chúng sinh.

Xem thêm bài viết hay:  Viết đoạn văn về tình yêu thương ngắn gọn, siêu hay, điểm cao

2.3. Thái tử, con trai của Vua không tránh khỏi kẻ thù:

Đức Phật Thích Ca dạy điều này bằng cách tụng kinh Pháp Hoa rằng: Từ xa xưa, Quán Thế Âm là thái tử của vua Không Tránh Niệm. Lúc bấy giờ, có Đức Phật tên là Như Lai Tạng, thông suốt giáo nghĩa vô song, vua và thái tử đều phát tâm đại Bồ-tát, phát nguyện hành Bồ-tát hạnh, nỗ lực thành Phật cứu độ chúng sinh. chúng sinh.

Lúc đầu, nhà vua và thái tử với tư cách là thí chủ đã thành tâm cúng dường y phục, thuốc men, thực phẩm, chăn mền và mọi thứ cần thiết cho tạng Như Lai và tăng dần trong suốt 3 tháng, chúng tăng dần. trưởng. Nhờ nhất tâm và tinh tấn không ngừng, vua Không Tránh Niệm đắc Phật quả và phát 48 đại nguyện cứu độ tất cả chúng sinh. Ngài liền thành Phật hiệu là A Di Đà Phật Tây Phương. Thái tử cũng ngập tràn hạnh phúc và cũng sẽ về cõi cực lạc để trở thành vị đại bồ tát tên là Quán Thế Âm cùng với Đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sinh về cõi cực lạc.

3. Bồ Tát Quán Thế Âm là nam hay nữ?

Trong nhiều ngôi chùa, Quán Thế Âm có hình tượng nữ nên vị Bồ tát này được mặc định là nữ, giống như người mẹ hiền che chở cho chúng sinh, lắng nghe tiếng kêu khổ và hóa ác, tăng thêm nhân duyên. Một phần nữa là trong Phật giáo, Quán Thế Âm bảo vệ phụ nữ và trẻ em và thường được xem là vị bồ tát thay đổi nhân duyên của phụ nữ bằng cách giúp phụ nữ trì hoãn việc kết hôn hoặc sinh con. tự động xác định là nữ.

Tuy nhiên, có nhiều nơi đặt tượng Quan Âm là nam, đặc biệt là tượng Quán Thế Âm theo trường phái Ấn Độ. Từ đó, chúng sinh thắc mắc về giới tính của Bồ tát, người được coi là một trong tứ đại Bồ tát của Phật giáo (cùng với Bồ tát Phổ Hiền, Bồ tát Địa Tạng và Bồ tát Văn Thù).

Theo kinh Nhị Hoa, Đức Phật gọi Bồ tát Quán Thế Âm là “Thiên tử”, nên có tín ngưỡng cho rằng Bồ tát là nam. Để hóa độ chúng sinh, chuyển hóa tâm ác thành thiện, và thể hiện lòng từ bi với họ, Quan Thế Âm đã hóa thân thành một hình tượng nữ.

Tuy nhiên, theo giáo lý nhà Phật, theo kinh Phật, các vị bồ tát không phân biệt nam nữ, giới tính. Phật giáo Mật tông giải thích rằng Quán Thế Âm là sự hòa hợp của hai yếu tố từ bi và trí tuệ, hiện thân trong hai hóa thân nữ và nam.

Xem thêm bài viết hay:  1 Krone Đan Mạch bằng bao nhiêu tiền Việt? Đổi tiền DKK ở đâu?

Theo nhiều bài báo, Bồ tát Quán Thế Âm có thể cứu độ hoặc giác ngộ những chúng sinh mà ngài thích bằng cách hóa thân thành 32 hình tướng dưới lốt nam và nữ, tùy theo mục đích của chúng sinh. Do đó, có khi là nam, có khi là nữ, tùy theo hiện thân, không theo một hình thức nhất định.

Ở Việt Nam, hầu hết các tượng Quán Thế Âm trong các ngôi chùa đều được thiết kế với phụ nữ, một phần do ảnh hưởng của tín ngưỡng mẹ ở Việt Nam. Tín ngưỡng dân gian Việt Nam có sức sống bền bỉ, liên tục hàng nghìn năm nên các tôn giáo du nhập đều phải hội nhập, hài hòa, kể cả một tôn giáo lớn như Phật giáo.

Phật giáo không coi trọng luân hồi, chỉ hiển thị đức hạnh, không quan trọng Bồ tát Quán Thế Âm là nam hay nữ, quan trọng là người Phật tử hiểu và học theo lời dạy hay, thực hành theo những điều Bồ tát chỉ dạy. dạy để thoát khỏi bể khổ, có cuộc sống hạnh phúc. Đây mới là mục đích chân chính của việc thờ Bồ Tát Quán Thế Âm.

4. Quán Thế Âm Bồ tát có phải là Phật không?

Trong Kinh Đại Bi, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh Đà La Ni rằng: “Trong vô lượng kiếp về trước, Quán Thế Âm Bồ tát đã thành Phật hiệu là Pháp Minh Như Lai… Nhưng nhờ nguyện đại bi nên Ngài đã thành nhân duyên cho Phật .sinh ra tất cả các vị bồ tát và để đem lại hạnh phúc chân thật cho chúng sinh nên Ngài đã hóa thân thành Bồ tát Quán Thế Âm và ở lại thế gian đồng thời làm phụ tá cho Đức Phật A Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực Lạc”.

5. Quán Thế Âm Bồ tát đến từ nước nào?

Quán Thế Âm Bồ tát thường xuyên xuất hiện và được nhắc đến trong kinh điển Đại thừa, như một biểu tượng của lòng từ bi và tình thương. Nhiều hình tượng Quán Thế Âm hiện ra. Vì phải có hình tượng cụ thể thì chúng sinh mới lễ bái, cầu nguyện.

Vì vậy, có thể nói Quán Thế Âm Bồ tát có thể là người Trung Quốc, có thể là người Ấn Độ, cũng có thể là người Nepal, Tây Tạng, v.v.. Không có quốc gia cụ thể và không có con người cụ thể. thân hình. Tại thời điểm này, anh ta xuất hiện trong tất cả các hình thức thích hợp để cứu độ chúng sinh.

Chuyên mục: Bạn cần biết

Nhớ để nguồn bài viết: Sự tích Quan Âm Bồ Tát? Quan Âm Bồ Tát là nam hay nữ? của website thcstienhoa.edu.vn

Viết một bình luận