Một số khái niệm cơ bản? Định nghĩa hiện tượng tâm lý? Định nghĩa bản chất? Bản chất của các hiện tượng tâm lý con người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng? Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan của bộ não? Tâm lý con người có bản chất lịch sử xã hội? Tâm lý chủ quan?
Thế giới tâm lý con người vô cùng kỳ diệu và phong phú. Nó được mọi người quan tâm và nghiên cứu cùng với lịch sử hình thành và phát triển của loài người. Ngay từ những ý tưởng đầu tiên, tâm lý học đã hình thành và phát triển không ngừng, ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nhóm các ngành khoa học nhân văn. Con người là một sinh học, xã hội và tâm lý. Vì vậy, nghiên cứu tâm lý con người cần phải tìm hiểu cơ sở tự nhiên, cơ sở xã hội và bản chất của các hiện tượng tâm lý con người. Bài viết dưới đây xin đi sâu vấn đề: “Trình bày quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất của các hiện tượng tâm lý con người”.
1. Một số khái niệm cơ bản:
1.1. Định nghĩa tự nhiên:
Bản chất là tổng hòa các mặt, các mối liên hệ tự nhiên, tương đối bền vững bên trong sự vật, quy định sự vận động, phát triển của sự vật.
1.2. Định nghĩa một hiện tượng tâm lý:
Trong cuộc sống đời thường, chữ tâm thường được dùng kết hợp với các chữ khác để tạo thành các cụm từ “tâm”, “tâm”, “tâm”…. được hiểu là lòng người, thiên về tình cảm. Theo từ điển Tiếng Việt (1988), tâm lý là những tư tưởng, tình cảm tạo nên đời sống nội tâm, thế giới nội tâm của con người. Trong tâm lý học: Tâm lý bao gồm tất cả các hiện tượng tinh thần nảy sinh trong đầu óc con người, gắn liền và chi phối mọi hoạt động, hành động của con người.
Hiện tượng tâm lý là hiện tượng có cơ sở tự nhiên là hoạt động thần kinh và hoạt động nội tiết, nảy sinh từ hoạt động sống của mỗi người và gắn liền với các quan hệ xã hội.
2. Bản chất của các hiện tượng tâm lý con người theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng:
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, tâm lý con người được hiểu như sau: “Tâm lý là sự phản ánh của bộ não hiện thực khách quan, chịu ảnh hưởng chủ quan và có bản chất lịch sử – xã hội. Nhận định trên cần làm rõ ba mặt sau:
2.1. Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan của bộ não:
Tâm lý là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Để có tâm lý con người cần có đồng thời hai yếu tố tác động là hiện thực khách quan và hoạt động bình thường của bộ não con người. Thiếu một trong hai yếu tố này thì không thể có tâm lý. Tâm lý con người không phải do Thượng đế tạo ra, từ trời sinh ra, cũng không do não tiết ra mật như gan mật tiết ra mật, mà tâm lý con người là sự phản ánh của hiện tại. Thực tế khách quan.
Bộ não là cơ sở vật chất, là nơi phát sinh và tồn tại tâm lý. Bộ não được hình thành và phát triển là kết quả của quá trình vận động và biến đổi lâu dài của vật chất. Tâm lý là kết quả của quá trình tiến hóa và phát triển lâu dài của bản thân thế giới vật chất. Thế giới vật chất đã trải qua ba thời kỳ phản ánh: phản ánh vật chất (khi ta đứng trước gương, ta nhìn thấy hình ảnh của mình qua gương); phản ánh sinh lý (hoa hướng dương luôn hướng về phía mặt trời mọc); phản ánh tâm lý (Trong một lần đi chơi, ta quen một người và có ấn tượng tốt về người đó, một thời gian sau gặp lại ta bắt gặp một hành động không tốt của người đó, lúc đầu ta sẽ không tin người đó cho lắm. hành động như vậy và nghĩ ra nhiều lý do để biện minh cho hành động đó.
Không phải tự nhiên mà có những hiện tượng tâm lý hay tâm lý do Thượng đế ban cho, mà nó là kết quả của quá trình phát triển của vật chất từ vô cơ sang hữu cơ, từ không có sự sống đến có sự sống, từ chỗ này sang chỗ khác. cuộc sống không có tâm lý đến nơi có hạt giống của tâm lý. Sự sống có tâm hồn từ khi vật chất phát triển đến khi các tế bào thần kinh tập hợp thành một hệ thống tương đối chặt chẽ. Tâm lý ban đầu được tìm thấy ở động vật. Khi có một người, có một tâm hồn con người. Tâm lý con người khác tâm lý động vật về chất ở chỗ con người có ý thức, có lời nói và có khả năng phân tích, tổng hợp, khái quát hóa.
Tâm lý là kết quả quá trình phát triển lâu dài của vật chất. Không có một bộ não hoạt động, không có tâm lý học. Nhưng có bộ não thôi chưa đủ mà phải có hiện thực khách quan tác động vào bộ não. Hiện thực khách quan có vai trò quan trọng đối với sự hình thành và phát triển tâm lý. Chủ nghĩa duy vật khẳng định rằng thực tại khách quan là tất cả những gì tồn tại bên ngoài ý thức của chúng ta. Hiện thực khách quan tác động vào các giác quan và bộ não của chúng ta tạo ra tâm lý và ý thức.
Ví dụ, sau khi xem một bức tranh, nhắm mắt lại có thể tưởng tượng ra màu sắc và khung cảnh vẽ nên bức tranh. Sau khi nghe một bài hát, chúng ta vẫn còn nhớ lời bài hát và giai điệu của bài hát đó trong đầu. Cầm viên bi (không nhìn) rồi cất đi có thể mô tả hình dạng và trọng lượng của viên bi. Tâm lý của mỗi người phản ánh hiện thực khách quan thông qua kinh nghiệm của bản thân. Hai người cùng xem một vật, họ đều lưu giữ hình ảnh của vật đó trong não. Hai hình ảnh của cùng một thứ trong hai bộ não có những đặc điểm khác nhau. Hay như chúng ta vẫn thường thấy, mỗi người phản ánh hiện thực khách quan qua lăng kính chủ quan của mình: “Người buồn bao giờ cũng vui. giờ”. (Nguyễn Du)
Phản ánh tâm lý là hình thức phản ánh đặc biệt và chỉ những sinh vật có hệ thần kinh, có bộ não mới có phản ánh tâm lý. Bộ não con người là cơ quan cao nhất của vật chất có cấu trúc phức tạp và hoàn thiện nhất. Trong quá trình sống và hoạt động của con người, những sự vật hiện tượng trong thế giới xung quanh tác động đến con người đều được hệ thần kinh tiếp nhận, não tiếp nhận và nhờ sự phân tích, tổng hợp của não mà có những hình ảnh tâm lý về thế giới khách quan.
Như vậy, tâm lý là hình ảnh của hiện thực khách quan trong não. Không có một bộ não hoạt động, không có tâm lý học. Mặt khác, nếu không có hiện tượng khách quan tác động vào bộ não thì không có hiện tượng tâm lý.
2.2. Tâm lý chủ quan:
Ví dụ: Hai Điều tra viên cùng tham gia khám nghiệm hiện trường, nhưng do trình độ nhận thức, chuyên môn… khác nhau nên kết quả điều tra khác nhau. Hay ví dụ: Con gái yêu bằng tai, con trai yêu bằng mắt.
Nguyên nhân là do:
+ Mỗi người có những đặc điểm riêng về cơ thể, các giác quan, hệ thần kinh và não bộ.
+ Mỗi người có hoàn cảnh sống khác nhau, điều kiện giáo dục khác nhau.
+ Đặc biệt, mỗi cá nhân thể hiện một mức độ hoạt động và tương tác khác nhau trong cuộc sống dẫn đến tâm lý người này khác người kia.
Tuy nhiên, không phải hiện thực khách quan nào tác động trực tiếp vào não bộ đều có hình ảnh tâm lý. Để có một hình ảnh tâm lý, điều kiện đủ là thông qua cách hoạt động và giao tiếp.
Tâm lý là sự phản ánh hiện thực khách quan. Sự phản chiếu này không đơn giản, thụ động, cứng nhắc như sự phản chiếu của máy ảnh hay một tấm gương. Hình ảnh tâm lý của hiện thực khách quan được chuyển hóa trong thế giới bên trong, được khúc xạ qua lăng kính chủ quan của con người.[phản ánh (chủ thể). Nói cách khác, tâm lý là hình ảnh chủ quan về hiện thực khách quan; hình ảnh tâm lý không những phụ thuộc vào bản thân hiện thực khách quan mà còn phụ thuộc vào đặc điểm của người phản ánh. Đó chính là tính chủ thể của phản ánh tâm lý.
Tính chủ thể của tâm lý thể hiện ở như sau:
Cùng một sự vật hiện tượng tác động vào những người khác nhau sẽ cho những hình ảnh tâm lý khác nhau về mức độ, sắc thái. Ví dụ như hai bạn cùng ngồi nghe giảng nhưng có bạn khen giáo viên dạy rất hay nhưng có bạn nghe không thích lại nói giáo viên dạy rất nhàm chán.
Cùng một sự vật hiện tượng tác động vào cùng một con người nhưng vào những thời điểm khác nhau, trong những thời điểm khác nhau có thể cho những hình ảnh tâm lý khác nhau.Chẳng hạn vào mùa hè, bạn đi học về gặp trời mưa. Bình thường bạn thấy rất sung sướng vì được tắm mưa. Nhưng hôm nay, bạn bị ốm và bạn cảm thấy rất khó chịu vì cơn mưa đó.
Chính chủ thể mang hình ảnh tâm lý là người cảm nhận, cảm nghiệm và thể hiện nó rõ nhất và thông qua các mức độ, sắc thái tâm lý khác nhau mà mỗi chủ thể tỏ thái độ và hành vi khác nhau đối với hiện thực. Ví dụ như bạn đi học về, con chó nhà bạn chạy ra quấn quýt lấy bạn. Bình thường, bạn cảm thấy dễ chịu về sự quấn quýt đó và sẽ ngồi vuốt ve nó. Nhưng hôm nay bị điểm kém, bạn thấy chán và bạn cảm thấy bực mình về sự quấn quýt đó.Bạn đã đá con chó đó một phát thật đau.
Do tâm lý mang tính chủ thể nên mỗi người luôn có những nét riêng giúp ta phân biệt người này với người kia. Trong đời sống và hoạt động giao tiếp chúng ta cần biết tôn trọng cái riêng của người khác, không thể đòi hỏi họ suy nghĩ, mong muốn hành đọng như mình. Mặt khác cách ứng xử tiếp cận cũng cần được phân hóa cho phù hợp với đối tượng.Trong hoạt động điều tra, khi tiến hành hỏi cung bị can, điều tra viên cần nghiên cứu kĩ tâm lý bị can từ đó mà đưa ra phương pháp, chiến thuật xét hỏi hợp lý, không thể máy móc áp dụng một phương pháp, một chiến thuật nào đó cho tất cả các bị can.
2.3. Tâm lý con người mang bản chất xã hội lịch sử:
Tâm lý con người khác xa với tâm lý của một số loài động vật bậc cao ở chỗ, tâm lý con người có bản chất xã hội và tính lịch sử.
Tâm lý con người mang bản chất xã hội.
Tâm lý có nguồn gốc xã hội và mang nội dung xã hội. Nguồn gốc của tâm lý là thế giới khách quan, nội dung của tâm lý chính là tổng hòa các mối quan hệ xã hội….Theo C.Mác bản chất con người “là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, chính các mối quan hệ xã hội đã quyết định bản chất tâm lý con người. Con người bao giờ cũng phải sống trong xã hội nhất định, không có con người nào tồn tại ngoài xã hội và tách khỏi kiện sống của xã hội. Sự tồn tại và phát triển của tâm lý luôn gắn liền với sự tồn tại và phát triển của cộng đồng xã hội.
Ví dụ: “Rochom P’ngieng mất tích năm 1989 khi đi chăn trâu. Sau 18 năm, Rochom được tìm thấy khi trên người không mặc quần áo và di chuyển như một con khỉ nói chuyện hay giao tiếp mà chỉ phát ra những tiếng gừ gừ, những âm thanh vô nghĩa, không thể hòa nhập vào cuộc sống con người. Từ đó có thể thấy tâm lý người chỉ hình thành khi có điều kiện cần và đủ là sự tác động của hiện thực khách quan lên não người bình thường và phải có hoạt động và giao tiếp.
Tâm lý con người là sản phẩm của hoạt động và giao tiếp của con người trong các mối quan hệ xã hội. Vì vậy, những người không được sống trong xã hội loài người sẽ không có tâm lý người(những trường hợp trẻ bị sói, trâu rừng nuôi đã phát hiện ra trên thế giới). tâm lý con người chịu sự quy định của các quan hệ xã hội mà họ tham gia. Mỗi cá nhân tham gia vào rất nhiều các mối quan hệ xã hội khác nhau, có các hoạt động và giao tiếp khác nhau. Các quan hệ xã hội mà cá nhân tham gia luôn để lại những dấu ấn nhất định trong tâm lý của họ.
Trong quá trình phát triển xã hội lịch sử, loài người đã tích lũy được vô vàn kinh nghiệm và tri thức về mọi mặt của cuộc sống và truyền đạt lại cho từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cá nhân nắm kinh nghiệm và tri thức chung của loài người biến nó thành kinh nghiệm của mình tức là tạo nên tâm lý cá nhân. Chẳng hạn, các hoạt động nghề nghiệp khác nhau luôn tạo ra những phong cách khác nhau trong hành vi của mỗi người. Nếu bạn làm kinh doanh, hẳn bạn sẽ chịu ảnh hưởng của hoạt động này mà có phong cách năng động, thực tế. Còn nếu bạn là nghệ sĩ, bạn sẽ có phong cách lãng mạn, bay bổng. Như vậy, phụ thuộc vào các quan hệ xã hội khác nhau mà tâm lý của mỗi cá nhân có nội dung khác nhau.
Tâm lý con người mang tính lịch sử, nghĩa là nó luôn vận động, biến đổi.Ví dụ: Trước đây thì xã hội rất định kiến về việc có thai trước khi cưới nhưng bây giờ xã hội biến đổi, sống phóng túng hơn nên con người xem vấn đề đó là bình thường. . Như ngay nay người ta “ đổ xô” đi thi hoa hậu. Có quá nhiều cuộc thi hoa hậu được tổ chức thì tất nhiên sẽ phải cần nhiều người đi thi, theo xu thế ngày nay là muốn tôn vinh cái đẹp. Nên thi hoa hậu đã trở thành một công nghệ lôi cuốn mọi ngươi và nuôi sống cả xã hội mà thí sinh dự thi không chỉ có nữ mà con còn có cả nam( lĩnh vực trước nay chỉ có nữ) cho thấy tâm lý của họ bị ảnh hưởng nhiều của tâm lý cộng đồng.
Thế giới xung quanh vận động, phát triển không ngừng. Tâm lý con người là sự phản ánh thế giới xung quanh, cũng không ngừng vận động và phát triển. Khi chuyển qua một thời kì lịch sử khác, những biến đổi trong xã hội sớm muộn sẽ dẫn đến những thay đổi trong nhận thức, tình cảm, ý chí, nếp nghĩ, lối sống, …của con người. Ví dụ ở nước ta trước đây trong thời kì bao cấp, những người giàu có nhiều tiền, kể cả bằng con đường lao động chân chính, thường ngại những người xung quanh biết là họ giàu, nhiều tiền của. Tuy nhiên cùng với sự phát triển của cơ chế thị trường, tâm lý đó cũng thay đổi: sự giàu có trở thành niêm tự hào, niềm kiêu hãnh và ngươi ta còn tìm cách chứng minh sự giàu có của mình bằng cách xây dựng nhà cao, to, lộng lẫy mua sắm nhiều đò dùng tiện nghi đắt tiền.
Như vậy, tâm lý con người có nguồn gốc xã hội vì thế muốn hiểu tâm lý con người và cải tạo giáo dục con người thì phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hóa xã hội, các quan hệ xã hội mà người đó sống và hoạt động-.Cần chú ý nghiên cứu sát đối tượng, chú ý đặc điểm riêng của từng cá nhân.Phải tổ chức hoạt động và các quan hệ giao tiếp để nghiên cứu sự hình thành và phát triển tâm lý con người.Chú ý giáo dục thể chất, phát triển não bộ và các giác quan.Nhìn nhận học sinh theo quan điểm phát triển, tôn trọng đặc điểm lứa tuổi. Tôn trọng ý kiến, quan điểm của từng chủ thể.Khi nghiên cứu cần xem xét sự phát triển của lịch sử cá nhân, lịch sử dân tộc và cộng đồng trong từng giai đoạn lịch sử.
Tóm lại, tâm lý người có nguồn gốc xã hội, vì thế phải nghiên cứu môi trường xã hội, nền văn hóa xa hội, các quan hệ xã hội trong đó con người sống và hoạt động. Cần phải tổ chức có hiệu quả các hoạt động dạy học và giáo dục, cũng như các hoạt động chủ đạo ở tửng giai đoạn lứa tuổi khác nhau để hình thành, phát triển tâm lý con người.
Chuyên mục: Bạn cần biết
Nhớ để nguồn bài viết: Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về bản chất hiện tượng tâm lý con người của website thcstienhoa.edu.vn