Nguyên nhân làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên khoáng sản nước ta?

Cạn kiệt tài nguyên khoáng sản xảy ra khi tài nguyên bị tiêu thụ với tốc độ nhanh hơn tốc độ thay thế. Dưới đây là bài viết về nguyên nhân làm cạn kiệt nhanh tài nguyên khoáng sản ở nước ta

1. Cạn kiệt tài nguyên khoáng sản là gì?

Sự cạn kiệt tài nguyên xảy ra khi việc tiêu thụ các nguồn tài nguyên tái tạo hoặc không thể tái tạo trở nên khan hiếm, vì chúng được tiêu thụ với tốc độ nhanh hơn mức có thể được bổ sung. Thuật ngữ xóa tài nguyên được sử dụng phổ biến nhất với nhiên liệu hóa thạch, sử dụng nước, đánh bắt cá, khai thác mỏ, khai thác gỗ, v.v.

Wikipedia định nghĩa cạn kiệt tài nguyên là,

“Cạn kiệt tài nguyên là việc tiêu thụ tài nguyên nhanh hơn mức chúng có thể được bổ sung. Tài nguyên thiên nhiên thường được chia thành tài nguyên tái tạo và tài nguyên không tái tạo. Việc sử dụng một trong hai dạng tài nguyên này vượt quá tỷ lệ thay thế của chúng được coi là cạn kiệt tài nguyên. “

Một nguồn tài nguyên khan hiếm trên trái đất do cạn kiệt đáng giá hơn một nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào. Do dân số toàn cầu ngày càng tăng, mức độ suy thoái tài nguyên thiên nhiên cũng ngày càng tăng.

Khoáng sản cung cấp nguyên liệu được sử dụng để tạo ra hầu hết mọi thứ của xã hội dựa trên công nghiệp; đường xá, ô tô, máy tính, phân bón, v.v… Nhu cầu về khoáng sản ngày càng tăng trên toàn thế giới khi dân số tăng và nhu cầu tiêu dùng cá nhân tăng. Kết quả là, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên của trái đất đang tăng tốc và kéo theo đó là những hậu quả về môi trường.

Khoáng sản là tài nguyên thiên nhiên quý, hữu hạn và không tái tạo. Chúng tạo thành nguyên liệu thô quan trọng cho nhiều ngành công nghiệp cơ bản và là nguồn phát triển chính. Vì vậy, quản lý tài nguyên khoáng sản phải được kết hợp chặt chẽ với chiến lược phát triển tổng thể; và khai thác phải được hướng dẫn bởi các mục tiêu và tầm nhìn dài hạn của đất nước.

2. Nguyên nhân lịch sử làm cạn kiệt nhanh chóng tài nguyên khoáng sản của nước ta:

2.1. Khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản:

Theo kết quả điều tra, đánh giá và thăm dò khoáng sản, Việt Nam có tài nguyên khoáng sản khá đa dạng và phong phú với trên 5.000 mỏ, điểm quặng thuộc 60 loại khoáng sản khác nhau; Có một số loại khoáng sản có trữ lượng lớn, tầm cỡ thế giới, có ý nghĩa chiến lược và nguồn lực để phát triển kinh tế – xã hội của đất nước.

Khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản là một trong những nguyên nhân chính gây cạn kiệt tài nguyên ở Việt Nam. Nhu cầu về tài nguyên khoáng sản đang tăng lên nhanh chóng do quá trình công nghiệp hóa và tăng trưởng kinh tế của đất nước. Điều này đã dẫn đến việc khai thác khoáng sản vượt quá tốc độ bổ sung dẫn đến cạn kiệt. Việc khai thác quá mức tài nguyên khoáng sản cũng dẫn đến suy thoái đất, ô nhiễm nguồn nước và các vấn đề môi trường khác.

Xem thêm bài viết hay:  Giám mục là gì? Khác biệt giữa Đức cha và Tổng giám mục?

Việt Nam đã phụ thuộc rất nhiều vào lĩnh vực khai khoáng như một nguồn thu nhập chính. Điều này dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên khoáng sản quá mức, nhiều công ty hoạt động vượt công suất, dẫn đến suy thoái môi trường. Ví dụ, khai thác vàng trái phép ở khu vực Tây Nguyên đã dẫn đến xói mòn đất, phá rừng và ô nhiễm nguồn nước. Tương tự, việc khai thác bauxite ở Tây Nguyên đã khiến hàng nghìn hecta rừng bị tàn phá, mất đa dạng sinh học và ô nhiễm nguồn nước.

2.2. Quản lý kém:

Quản trị yếu kém là những yếu tố quan trọng góp phần làm cạn kiệt tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam. Lĩnh vực khai thác khoáng sản ở Việt Nam đang bị ảnh hưởng nghiêm trọng dẫn đến tình trạng khai thác trái phép, quản lý tài nguyên yếu kém và các vi phạm khác.

Sự thiếu minh bạch trong lĩnh vực khai khoáng đã gây khó khăn cho việc giám sát và kiểm soát việc khai thác tài nguyên khoáng sản. Kết quả là, một số công ty đã tham gia khai thác khoáng sản mà không tuân theo các quy định cần thiết về môi trường. Ngoài ra, quản lý kém đã góp phần làm suy thoái môi trường, do một số công ty khai thác mỏ không chịu trách nhiệm về hành động của mình. Cụ thể, số lượng giấy phép hoạt động khoáng sản khá lớn, trong khi Nhà nước và lực lượng quản lý khoáng sản còn ít, công tác kiểm tra, thanh tra sau cấp phép chưa đáp ứng yêu cầu quản lý và xử phạt vi phạm pháp luật. chủ yếu. Phá luật chưa đủ mạnh…

2.3. Các quy định về môi trường không phù hợp:

Các quy định pháp luật về môi trường chưa đầy đủ là một yếu tố quan trọng khác góp phần làm cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam. Việc thiếu các quy định phù hợp đã cho phép các công ty khai thác khai thác khoáng sản mà không tính đến các tác động môi trường do hành động của họ.

Chính phủ gần đây đã đưa ra các quy định nhằm giảm tác động môi trường của việc khai thác mỏ. Ví dụ, Luật Khoáng sản 2010 và Luật Bảo vệ Môi trường 2014 nhằm điều chỉnh các hoạt động khai thác khoáng sản và đảm bảo rằng các tác động môi trường được xem xét trước khi cấp phép khai thác. Tuy nhiên, việc thực hiện các quy định này còn chậm và một số công ty khai thác mỏ vẫn tiếp tục hoạt động mà không tuân theo các quy định cần thiết về môi trường.

2.4. Sử dụng tài nguyên, khoáng sản bừa bãi:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ngày càng cần nhiều nguyên liệu thô dẫn đến tình trạng sử dụng tài nguyên khoáng sản bừa bãi. Khoáng sản cạn kiệt bao gồm quặng sắt, than đá, bauxite và kali. Và đây là những tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo.

Xem thêm bài viết hay:  Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên GV THPT Module 29

Ngoài ra, do sự gia tăng dân số, nhiên liệu cho một số mục đích và khoáng chất được yêu cầu để tồn tại. Kết quả là, rất nhiều hoạt động khai thác đang diễn ra. Tuy nhiên, dầu mỏ và khoáng sản là nguồn tài nguyên thiên nhiên không thể tái tạo, và việc cạn kiệt chúng sẽ dẫn chúng ta đến những thiệt hại nghiêm trọng trong tương lai.

Những nguồn tài nguyên này mất hàng triệu năm để hình thành và với tốc độ chúng ta đang sử dụng nhiên liệu hóa thạch và khoáng chất, một ngày nào đó chúng ta sẽ phải đối mặt với sự khan hiếm những thứ này.

2.5. Do yếu tố lịch sử:

Việt Nam trải qua hàng chục năm dưới ách đô hộ của Pháp cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến cạn kiệt tài nguyên khoáng sản ở nước ta. Thực dân Pháp tiến hành chính sách khai thác thuộc địa nhằm khai thác tài nguyên khoáng sản ở nước ta để phục vụ cho nhu cầu phát triển công nghiệp trong nước. đất nước của chính mình.

Tóm lại, cạn kiệt tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam là một vấn đề phức tạp, đòi hỏi phải có giải pháp tổng hợp nhiều mặt. Khai thác quá mức, quản lý yếu kém, tham nhũng và các quy định pháp luật về môi trường chưa đầy đủ là một số yếu tố góp phần làm cạn kiệt nguồn tài nguyên khoáng sản ở Việt Nam. Để giải quyết vấn đề này, chính phủ cần củng cố khung pháp lý và thực thi các quy định về môi trường. Ngoài ra, cần giảm sự phụ thuộc của đất nước vào lĩnh vực khai khoáng và đa dạng hóa nền kinh tế để giảm áp lực lên tài nguyên khoáng sản.

3. Hiện trạng tài nguyên khoáng sản Việt Nam:

Quặng bauxit: Quặng bauxit ở Việt Nam phân bố chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc (Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang), Tây Nguyên (Đăk Nông, Lâm Đồng, Gia Lai, Kon Tum) và các tỉnh Bình Phước, Phú Yên. . Yên. Dự báo trữ lượng và tài nguyên quặng bauxite các tỉnh phía Bắc khoảng 88,5 triệu tấn. Đối với quặng bauxite laterit, tổng trữ lượng và tài nguyên dự báo quặng bauxite-laterit đã được ước tính là 3.500 triệu tấn quặng tinh.

Đất hiếm: Quặng đất hiếm tập trung ở các mỏ Bắc Nậm Xe, Nậm Nậm Xe, Đông Pao (Lai Châu), Mường Hum (Lào Cai), Yên Phú (Yên Bái). Theo thống kê, trữ lượng và tài nguyên đất hiếm ở Việt Nam đạt khoảng 19,96 tấn Tr2O3.

Apatit: Đến nay đã xác định được 17 mỏ và điểm apatit, chủ yếu ở tỉnh Lào Cai. Hầu hết các mỏ apatit có kích thước từ trung bình đến lớn. Dự báo trữ lượng và tài nguyên quặng apatit đến độ sâu – 900m là 2.373,97 triệu tấn.

Xem thêm bài viết hay:  Điều kiện, chi phí và thủ tục?

Cát trắng: Cát trắng phân bố ở 09 tỉnh ven biển Bắc Bộ và Trung Bộ, có nhiều tiềm năng nhưng mức độ điều tra, đánh giá còn hạn chế. Tổng trữ lượng của 13 mỏ đã thăm dò là 123 triệu tấn, tài nguyên ước tính khoảng 03 tỷ tấn.

Đá vôi chất lượng cao (trừ đá hoa trắng): Đá vôi đáp ứng yêu cầu sản xuất xi măng, vôi, xút công nghiệp có mặt ở 29 tỉnh, thành phố trong cả nước nhưng phân bố không đều, tập trung chủ yếu ở miền Bắc. và Bắc Trung Bộ. Hiện cả nước có hơn 80 mỏ đã được điều tra, đánh giá và thăm dò ở các cấp độ khác nhau với tổng trữ lượng khoảng 08 tỷ tấn.

Đá hoa trắng: Phân bố ở 11 tỉnh phía Bắc, nhưng tập trung ở Nghệ An và Yên Bái. Đến nay, hơn 70 mỏ đã được thăm dò. Khoảng 200 triệu m3 đá hoa trắng đã được xác định đủ điều kiện sản xuất đá ốp lát và 1,2 tỷ tấn đủ chất lượng để sản xuất bột canxi cacbonat.

Nước khoáng – nước nóng: Hầu hết các tỉnh, thành phố trong cả nước đều có nước khoáng – nước nóng. Đến nay đã điều tra, thống kê được 400 nguồn nước khoáng, nước nóng.

Quặng urani: Kết quả nghiên cứu địa chất và thăm dò khoáng sản đã phát hiện khoáng hóa urani ở khu vực Tây Bắc, Việt Bắc, miền Trung và Tây Nguyên. Đặc biệt tập trung ở vùng Nông Sơn (Quảng Nam). Đến nay, đã đánh giá, thăm dò 06 mỏ urani với tổng tài nguyên ước tính khoảng 218.000 tấn U3O8, trong đó khu vực Nông Sơn khoảng 100.000 tấn U3O8.

Than: Than phân bố chủ yếu ở bể than Đông Bắc và bể than Sông Hồng. Ngoài trữ lượng than đã khai thác, nếu không tính than ở bể sông Hồng thì trữ lượng và tài nguyên còn lại không lớn (khoảng 5 tỷ tấn kể cả tài nguyên dự báo).

Về bể than Sông Hồng, hiện đang điều tra, đánh giá tổng thể tiềm năng than của khu đất. Kết quả bước đầu cho thấy, tiềm năng than trong đất liền bể sông Hồng rất lớn, mật độ than cao từ -330 đến -1200m. Phạm vi phân bố từ Khoái Châu Hưng Yên đến Tiền Hải, Thái Bình – Hải Hậu Nam Định. Kết quả sơ bộ đã xác định được loại than có chất lượng tốt để sử dụng làm than năng lượng.

Ngoài ra, nước ta còn có một số khoáng sản kim loại khác như quặng đồng, quặng sắt, mangan, antimon, thủy ngân, molypden, fenspat, cao lanh, sét kali làm nguyên liệu gốm sứ, đá ốp lát… Các khoáng sản này không lớn và phân tán

Chuyên mục: Bạn cần biết

Nhớ để nguồn bài viết: Nguyên nhân làm cạn kiệt nhanh chóng nguồn tài nguyên khoáng sản nước ta? của website thcstienhoa.edu.vn

Viết một bình luận