Người theo đạo Tin Lành có được phép ly hôn (ly dị) không?

Pháp luật Việt Nam quy định mọi công dân đều bình đẳng trong việc hưởng quyền và thực hiện nghĩa vụ, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, giới tính,… Vậy xin ly hôn (ly hôn) có được phép?

1. Nguồn gốc đạo Tin Lành:

Ở Việt Nam, đạo Tin lành là thuật ngữ thường được dùng để chỉ một nhánh của đạo Thiên chúa nằm trong phong trào phản kháng, đạo Tin lành là một nhánh khác với đạo Công giáo. “Phúc âm” cũng có thể được gọi là “Phúc âm” hoặc “Phúc âm.

Vào khoảng cuối thế kỷ XIX, cụ thể là vào năm 1884, một nhóm tín đồ ở Châu Âu đã đến Việt Nam lập Hội thánh tại Hải Phòng. Sau đó nhiều giáo đoàn khác được thành lập ở Hà Nội và Sài Gòn vào đầu thế kỷ XX. Bắt đầu từ năm 1902, nhưng năm 1911 được coi là thời điểm đạo Tin lành truyền sâu vào Việt Nam, khi các giáo sĩ của Hội Tin lành Thống nhất (CandMA) đến Tourane (nay là Đà Nẵng) để thành lập các trung tâm truyền giáo tại đây.

Cho đến năm 1927, Hội Thánh Tin Lành Việt Nam chính thức được thành lập (do Hội Truyền Giáo Thống Nhất hỗ trợ). Là tổ chức Tin lành ra đời sớm nhất ở Việt Nam, thuật ngữ “Tin lành” thường dùng để chỉ các nhóm, hệ phái Tin lành. Sau đó, các hệ phái Tin Lành khác nối gót Hội Thánh Tin Lành Việt Nam thành lập tổ chức riêng, nỗ lực rao giảng Tin Lành và tham gia các hoạt động xã hội tại Việt Nam.

Theo nhiều thống kê, hiện có từ 1 triệu đến gần 1,5 triệu tín đồ trong cộng đồng Tin lành ở Việt Nam. Đạo Tin lành được coi là một trong những tôn giáo phát triển nhanh và ổn định nhất ở Việt Nam, số lượng người theo đạo Tin lành ở miền Bắc cũng đang tăng lên đáng kể.

2. Quá trình hình thành và phát triển đạo Tin lành:

Có thể chia quá trình hình thành và phát triển của đạo Tin lành thành 6 giai đoạn như sau:

Trước năm 1911:

Những người truyền đạo Tin Lành đã xuất hiện ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XX. Nhưng vào thời điểm đó, quá trình truyền giáo không có kết quả.

Mãi đến cuối thế kỷ XIX, giáo lý của đạo Tin lành mới bắt đầu được truyền bá một cách hiệu quả vào Việt Nam.

Từ 1911 đến 1927:

Xem thêm bài viết hay:  Nội trú là gì? Phân biệt giữa điều trị nội trú và điều trị ngoại trú?

Đây được coi là quá trình mở đường và bước đầu thành lập những nhà truyền giáo đầu tiên ở Việt Nam.

Sau nhiều năm chờ đợi và kiên nhẫn chờ cơ hội sang Việt Nam truyền đạo, mùa xuân năm 1911, Jaffray cùng Paul M. Hosler và G. Loyde Hughes vào Tourane (Đà Nẵng) và được Bonnet làm đại diện thi ca. của Hội Thánh. Do cái chết của Hughes, Hosler là người duy nhất dẫn đầu nhiệm vụ đầu tiên tại Việt Nam. Hơn 3 năm sau, cơ sở này được hoàn thành bởi 9 giáo sĩ, và một cơ sở mới được thành lập tại Hội An. Từ đầu năm 1915 mở thêm hai cơ sở ở Hải Phòng và Hà Nội.

Sau khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng nổ, tháng 12 năm 1915, thực dân Pháp ra lệnh “cấm tiếp tục truyền giáo cho người bản xứ”, đóng cửa tất cả các nhà nguyện và văn phòng truyền giáo nước ngoài, trừ cơ sở ở Đà Nẵng và buộc các giáo sĩ mang tên gốc Đức. rời khỏi Việt Nam. Sau khi gặp R A. Jaffray tiếp Toàn quyền Pháp tại Hà Nội năm 1916, sự nghi ngờ của người Pháp biến mất, các giáo sĩ mới được phép mở rộng truyền đạo vào Nam Kỳ. Đến năm 1927, số người truyền giáo đã tăng gấp ba lần.

Từ 1927 đến 1941:

Từ năm 1927 đến năm 1941 là quá trình thành lập nhà thờ. Trong những năm này, giáo hội tự chủ, độc lập và tự truyền bá vào Việt Nam.

Từ 1942 đến 1954:

Do ảnh hưởng của chiến tranh cùng với cộng đồng thanh niên theo đạo Tin lành, trong giai đoạn 1942 – 1954, quá trình truyền đạo và hoạt động chịu nhiều tác động tiêu cực. Nhiều nhà thờ buộc phải đóng cửa để phục vụ kháng chiến, đồng thời hoạt động truyền giáo cũng chịu nhiều hạn chế, không còn được tự do như thời kỳ trước.

Mãi đến năm 1948, phong trào Tin Lành mới có dấu hiệu phục hồi và củng cố. Từ đó, cộng đồng tín đồ đạo Tin lành được mở rộng và phát triển mạnh mẽ.

Từ 1954 đến 1975:

Cùng với sự chia cắt đất nước, đạo Tin lành cũng bị chia cắt theo từng vùng. Từ đó, Hội thánh sinh hoạt độc lập ở mỗi miền nam bắc. Trong thời kỳ này, đạo Tin lành đã có nhiều đóng góp cho phong trào kháng chiến cũng như các hoạt động kinh tế – xã hội của đất nước.

Xem thêm bài viết hay:  Dẫn độ tội phạm là gì? Đặc điểm, nguyên tắc và đối tượng?

Từ 1975 đến nay:

Từ năm 1975 đến nay, số người theo đạo Tin lành tăng nhanh về số lượng. Cho đến ngày nay, đây được coi là một trong những tôn giáo quan trọng ở Việt Nam.

3. Người theo đạo Tin lành có được phép ly hôn (li dị) không?

3.1. Nền tảng giáo lý:

Đạo Lão và cụ thể là Đạo Tin Lành quy định những người đã kết hôn không được phép ly hôn (li dị). Trong những giáo lý được dạy, người ta coi nụ hôn đẹp nhất là mãi mãi và vĩnh cửu giữa vợ và chồng. Do đó, ly hôn là trái với những gì được thiết lập trong giáo lý.

Đạo Tin Lành là một nhánh bắt nguồn từ Thiên Chúa giáo, theo mệnh lệnh của Chúa Kitô: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình với vợ cả.

Do đó, những người theo đạo Tin lành không được phép ly hôn.

3.2. Cơ sở pháp lý:

Khoản 2 Điều 5 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 quy định:

“Nghiêm cấm các hành vi sau:

a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;

b) Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, tảo hôn, cản trở kết hôn;

c) Người có vợ, có chồng mà kết hôn, chung sống như vợ chồng với người khác hoặc không có vợ, có chồng mà kết hôn, chung sống như vợ chồng với người có vợ, có chồng;

đ) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người có cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người cùng họ trong phạm vi ba đời; giữa cha mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con. con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;

đ) Đòi của cải trong hôn nhân;

e) Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;

g) Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hộ vì mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;

h) Bạo lực gia đình;

i) Lợi dụng việc thực hiện quyền hôn nhân và gia đình để mua bán người, bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc thực hiện các hành vi khác vì vụ lợi.

Theo đó, một trong những hành vi bị nghiêm cấm là cản trở việc ly hôn. Vì vậy, về cơ sở pháp lý, không ai có quyền ngăn cản việc vợ chồng ly hôn vì bất kỳ lý do gì. Như vậy, có thể khẳng định rằng, theo quy định của pháp luật, vợ chồng anh chị theo đạo Tin lành vẫn được thực hiện thủ tục ly hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình.

Xem thêm bài viết hay:  Lao động có vai trò như thế nào trong việc thay đổi con người nguyên thủy?

4. Khi nào người theo đạo được ly hôn?

Nhiều người theo đạo Tin lành thường hỏi người theo đạo được ly hôn hợp pháp trong những trường hợp nào?

Pháp luật hôn nhân và gia đình hiện hành quy định tín đồ tôn giáo có thể ly hôn theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai vợ chồng thuận tình ly hôn nếu có đủ lý do thuận tình.

Trong trường hợp thuận tình ly hôn thì cả hai vợ chồng phải thực sự tự nguyện ly hôn, cả hai đã thỏa thuận, thống nhất về vấn đề con cái và chia tài sản.

Đồng thời, thỏa thuận này phải đảm bảo quyền lợi chính đáng của hai bên và các con.

Theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình thì yêu cầu ly hôn của bên kia phải có đủ căn cứ trong trường hợp đơn phương thuận tình ly hôn.

Dù trong hoàn cảnh nào, kể cả khi vợ hoặc chồng bạn không đồng ý ly hôn thì bạn vẫn có quyền yêu cầu ly hôn với những lý do sau:

– Khi vợ, chồng yêu cầu ly hôn mà hòa giải tại Tòa án không thành thì Tòa án giải quyết cho ly hôn nếu có căn cứ về việc vợ hoặc chồng có hành vi bạo lực gia đình hoặc vi phạm nghiêm trọng quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng. của vợ chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được.

– Trường hợp vợ, chồng của người bị Tòa án tuyên bố mất tích yêu cầu ly hôn thì Tòa án giải quyết cho ly hôn.

Vì vậy, ngay cả khi bạn theo đạo, bạn vẫn có thể nộp đơn ly hôn nếu bạn có tất cả các lý do trên.

Việc ly hôn của người có đạo cũng được giải quyết như thủ tục ly hôn bình thường theo quy định của pháp luật.

Chuyên mục: Bạn cần biết

Nhớ để nguồn bài viết: Người theo đạo Tin Lành có được phép ly hôn (ly dị) không? của website thcstienhoa.edu.vn

Viết một bình luận