Hoàn cảnh ra đời của nhà Trần? Lịch sử và nguồn gốc của nhà Trần? Bộ máy nhà nước thời Trần? Pháp luật thời Trần? Thành tựu của thời Trần?
Một trong những triều đại được biết đến với những chiến công hiển hách trong lịch sử Việt Nam – nhà Trần. Vậy nhà Trần ra đời trong hoàn cảnh nào? Bộ máy nhà nước thời Trần được xây dựng như thế nào?
1. Hoàn cảnh ra đời của nhà Trần?
Càng về cuối thế kỷ XII, nhà Lý càng suy yếu. Chính phủ không quan tâm đến cuộc sống của người dân; nội bộ triều đình mâu thuẫn, nhân dân sống cơ cực; Nhiều nơi dân nghèo nổi dậy đấu tranh. Giặc phương Bắc không ngừng rình rập. Vua Lý phải dựa vào họ Trần để giữ ngôi. Từ đó, mọi việc trong triều đều do Trần Thủ Độ quyết định.
Lý Huệ Tông không có con trai, truyền ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng mới 7 tuổi. Trần Thủ Độ tìm mọi cách để Chiêu Hoàng lấy Trần Cảnh, rồi nhường ngôi cho chồng (đầu năm 1226). Nhà Trần được thành lập.
2. Lịch sử và nguồn gốc nhà Trần:
Tổ tiên nhà Trần là ngư dân, quê gốc ở đất Mân Việt, tỉnh Phúc Kiến, di cư vào đất Đại Việt đầu tiên ở xã Yên Sinh, huyện Đông Triều (Quảng Ninh), sau đến Tức Mặc, Nam Định. Ngoại trừ Trần Lý, con Trần Thừa, con của Trần Thừa là Trần Cảnh – vị vua đầu tiên của nhà Trần, con cháu nhà Trần đều là con cháu họ Trần, họ Lý. Theo gia phả họ Trần Lạc Dương còn được lưu giữ bởi tộc trưởng 27 đời Trần Đình Nhân (hậu duệ của Trần Ích Tắc), có nguồn gốc xa xưa từ thời Chiến Quốc, họ Trần thuộc Việt tộc. của dòng họ Bách Việt sống ở Mận Việt (tỉnh Phúc Kiến – Trung Quốc ngày nay).
Nhà Trần đầu tiên đến Đại Việt là Trần Kính (陳京), định cư ở làng Tức Mặc (nay là huyện Lộc Vượng, thành phố Nam Định) vào đầu thế kỷ 12 và sống bằng nghề chài lưới. Ông Trần Kính sinh ông Trần Hợp, sau đến ông Trần Lý.
Gia đình ông Trần là một gia đình giàu có, có hàng trăm nhân khẩu làm ăn sinh sống. Anh em nhà Trần Lý cũng bỏ nghề đánh cá chuyển sang quản lý điền trang và tuyển mộ người. Họ Trần dần có địa vị và trở thành tầng lớp thượng lưu của xã hội lúc bấy giờ.
Ba đời con cháu sinh sống ở Đại Việt, họ Trần trở nên hưng thịnh và hùng mạnh dưới sự dẫn dắt của Trần Lý. Khi đến tuổi trưởng thành, Trần Lý kết hôn với Tô Thì Hiền (Tô Thì Hiền có em trai là Tô Trung Từ, làm Thái úy dưới thời Lý Huệ Tông, hiệu là Thuần Lưu Ba). Ông bà có bốn người con: Trần Thừa, Trần Tự Khánh, Trần Thị Dung và Trần Thị Tam Nương.
Trần Thừa lấy bà họ Lê (con gái ông Lê Diên, Thái phó nhà Lý), sau sinh được 3 người con trai là Trần Liễu, Trần Cảnh, Trần Nhật Hiệu và 2 con gái. Trần Cảnh – con thứ của Trần Thừa, sinh ngày 16 tháng 6 năm Bính Dần. Như vậy, Trần Cảnh (vị vua đầu tiên của nhà Trần) là cháu nội của Trần Kính (ông cố nội của họ Trần).
3. Bộ máy nhà nước thời Trần:
Nhà Trần tiếp tục dựa vào mô hình Nhà nước thân dân, thậm chí đạt đến sự hoàn thiện. Trong giai đoạn này, đã xuất hiện mô hình coi già làng là người có vai trò lớn trong các quyết sách quan trọng của quốc gia.
Nhà Trần chia các đơn vị hành chính. Năm 1242, 24 lộ của nhà Lý đổi thành 12 bộ. Lộ gồm các châu, huyện, xã. Trong thời gian trị vì, nhà Trần đã bổ sung thêm nhiều quan lại và các cơ quan chuyên môn mới đáp ứng yêu cầu của bộ máy hành chính, trong số đó có các cơ quan tư pháp như Toà án, Tam viện do các cơ quan chuyên trách phụ trách. môn phụ trách, các cơ quan văn hóa, giáo dục như Quốc sử viện, Thái y viện v.v… Nhìn chung, nhiều cơ quan được thiết lập thành hệ thống riêng gọi là quán, sảnh, cục, đài, viện.
xem thêm: Phân tích đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp (45-54)
Ngoài các chức quan dưới thời Lý, thời Trần có thêm các chức Tư, Tư thất, Tư không, gọi chung là tam tư; Tướng quốc kiêm các chức Đại hành khiển, Tham chính đại đội trưởng. Một vị tướng tương đương với một thủ tướng. Trách nhiệm chung của bộ ba như sau:
bộ quần áo: Phụ trách công tác ngoại giao, văn hóa, nghi lễ. Do chức năng quan trọng như vậy nên tư nhân thường kiêm luôn chức tể tướng.
Mã bốn: Phụ trách quốc phòng, công an, tư pháp.
Thứ tư không: Phụ trách các vấn đề còn lại.
Nhà Trần chia làm Thái Ấp, mục đích là đưa quan lại về các địa phương để giải quyết tốt hơn mối quan hệ làng nước.
Năm 1242, nhà Trần chia lại đơn vị hành chính, đổi 24 lộ thành 12 lộ. Ở cấp đường, quan thượng thư là An phủ chánh sứ, có An phủ phó sứ giúp việc (có lối đặt chức Trần Phủ, Thống suất để cai trị).
Lộ chia làm châu (miền xuôi), châu (miền núi), đứng đầu là Tri phủ và Tiết độ sứ. Phủ, châu chia thành xã. Khi đó, chính sách liên xã bắt đầu được áp dụng. Theo chính sách này, 2, 3 hoặc 4 xã có cùng sở thích được nhóm lại thành một xã lớn gọi là Liên xã. Đứng đầu Liên xã là các quan: Đại tư xã hay Tiểu tư xã do vua bổ nhiệm tuỳ theo mức độ quan trọng của Liên xã. Chức Xã Đại Từ được giao cho các quan từ ngũ phẩm trở lên, các xã còn lại được giao cho các quan từ lục phẩm trở xuống. Đứng đầu mỗi xã, vua đặt một quan xã gọi là xã chính, ngoài ra còn có các xã phụ giúp việc.
Các vua Trần đặt tục nhường ngôi sớm cho con và xưng là Thái thượng hoàng, lo việc nước.
xem thêm: Chính sách thực tập nông nghiệp là gì? Nội dung và ý nghĩa chính?
Nhà Trần rất chú trọng đến việc xây dựng lực lượng quân đội. Thanh niên khỏe mạnh được tuyển chọn vào quân đội, thời bình thì vào làng sản xuất, khi có chiến tranh thì tham gia chiến đấu.
Ngoài các chức quan như thời Lý, nhà Trần cho lập thêm các Hà đê trông coi việc đắp và hộ đê; Động viên nông dân chăm sóc, khuyến khích nông dân sản xuất; Đồn điền sứ tuyển người đi hoang.
4. Pháp luật thời Trần:
Dưới thời Trần, có hai bộ luật được ban hành dưới các đời vua Trần Thái Tông và Trần Dụ Tông. Thời vua Trần Thái Tông, ông có soạn Quốc triều thông chí, bộ này đã thất lạc từ cuối thế kỷ 18, theo học giả Lê Quý Đôn trong Đại Việt thông sử. Tháng 9 năm 1341, vua Trần Dụ Tông sai người biên soạn Hoàng Triều điển và thảo Hình Thư để ban hành. Tuy nhiên, lịch sử cũ cho rằng những
Pháp luật thời kỳ này có một số đặc điểm như sau:
đầu tiên, Pháp luật nhà Trần ưu tiên bảo vệ chủ quyền và lợi ích của nhà Trần
Thứ hai, Luật pháp nhìn chung có tính độc lập cao, mặc dù khi viện dẫn đến nó, nó không sao chép hoàn toàn luật pháp Trung Quốc một cách máy móc.
Thứ ba, Pháp luật đề cao lễ nghi và đạo đức phong kiến.
Thứ Tư, Pháp luật chủ yếu là các quy định hình sự, với nhiều chế tài hình sự nghiêm khắc.
xem thêm: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến chống Pháp
Thứ năm, Pháp luật thời kỳ này rất gần gũi với nhân dân.
5. Thành tựu của nhà Trần
Về văn hóa, xã hội, tôn giáo:
Xã hội Đại Việt thời Trần cởi mở, phóng khoáng, hòa đồng. Kế thừa truyền thống thời Lý, Phật giáo vẫn thịnh nhưng Nho giáo ngày càng thịnh hành, Lão giáo cùng tồn tại. Đó là thời đại “tam giáo đồng chủng”, tam giáo đồng nguyên được công nhận. Tam giáo và tín ngưỡng dân gian được tôn trọng, không có sự phân biệt đối xử. Giữa các tôn giáo, tín ngưỡng không có sự phân biệt, định kiến mà cùng tồn tại, hiểu biết, hòa hợp. Đây là một nét đặc sắc trong đời sống tín ngưỡng thời Trần, không chỉ kế thừa mà còn phát triển hơn nữa truyền thống của thời Lý.
Một thành tựu góp phần nâng cao trí tuệ Đại Việt là nhà Trần đã chú trọng phát triển khoa cử và thi cử, giáo dục và tuyển dụng nhân tài. Nhà Trần mở Quốc học viện, tổ chức thi đỗ Thái học sinh, phong Tam Tế (Trượng Nguyên, Bàng Long, Thám Hoa), bồi dưỡng trí thức Nho học. Số nho sĩ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong chính trị, sáng tạo văn học và phát triển văn hóa. Phan Huy Chú đánh giá cao thành tựu của chế độ thi cử thời Trần: “Bấy giờ nhân tài đông đảo, đủ thấy tác dụng của khoa cử”. Gia đình xuất thân từ một làng chài ven biển, yêu thích võ thuật nhưng
Về quân sự:
Nhà Trần tồn tại gần 200 năm, điều đó thể hiện ở cách tổ chức và phát triển của nó. Các hoạt động quân sự của nhà Trần diễn ra cả ở phía nam và phía bắc, cả trong và ngoài biên giới. Quân đội nhà Trần được đánh giá cao trong lịch sử quân sự Việt Nam với những chiến công hiển hách, đặc biệt là sau ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông xâm lược. Thời kỳ này, quân đội nhà Trần nổi tiếng tinh nhuệ, thiện chiến, kỷ luật và các tướng tài như Thiết Khiết Quốc Công Trần Hưng Đạo.
Nhà Trần xây dựng quân đội theo chính sách “ngụ binh, làm nông”, thực hiện chế độ quân dịch kết hợp luân chuyển quân đội. Để nhanh chóng bổ sung quân số, phạm vi đăng ký nhập ngũ được mở rộng ra Thanh Hóa, Nghệ An và một số vùng lân cận thuộc đồng bằng Bắc Bộ. Đình Tràng được chia làm 3 cấp: Thượng (Nhất), Trung (Nhị), Hạ (Đệ tam) và bổ sung theo mức độ quan trọng của đơn vị và loại quân (Hạng Nhất là người quê, họ hàng nhà Trần).
Chuyên mục: Bạn cần biết
Nhớ để nguồn bài viết: Hoàn cảnh ra đời của Nhà Trần? Bộ máy nhà nước thời Trần? của website thcstienhoa.edu.vn