Cô gái Thạch Bàn là một trong những vị tổ của đền chứ không phải là thành viên chính thống của hệ thống tứ phủ. Nhưng sự thánh thiện và đức độ của bà đã nổi tiếng gần xa ở vùng Côn Sơn, Hải Dương. Chính điện thờ cô gái Thạch Bàn nổi tiếng đa tài về cầu tài. Trong bài viết này, chúng tôi chủ yếu tóm tắt những thông tin về cô bé Thạch Bàn và chính ngôi miếu.
1. Cô gái Thạch Bàn là ai?
Cô bé Thạch Bàn là một trong những vị tiên làng được thờ tại đền Sình ở làng Yên Mô, Chí Linh, Hải Dương. Vì tòa Cô Bé được lập ở Thạch Bàn nên thường gọi là Tiểu Thạch Bàn. Bà tuy không thuộc tứ phủ nhưng khí phách anh hùng, đức độ của bà được nhân dân gần xa kính trọng, thờ phụng, thường đến đền Sinh chiêm bái.
2. Hầu giá Gái Thạch Bàn:
Người ta hầu hạ cô bé Thạch Bàn phía sau giá của Tứ Phủ Cô Gái. Người ta cúng cho cô một bộ áo gấm đặc trưng của núi rừng, trên đầu đội một chiếc khăn thêu hoa, có khi thắt khăn. Thường thì cô chỉ thích ở chùa mình trong những ngày lễ tết khi có các thanh đồng mời cô giáng trần.
3. Đền Sinh, nơi thờ cô bé Thạch Bàn:
Trong đền có tấm bia đá khắc hình người phụ nữ đang mang thai trong tư thế đỡ đẻ được đặt trang trọng trong hậu cung, được nhân dân kính cẩn gọi là Thánh mẫu Thạch Bàn.
Đền Sinh nổi tiếng là một ngôi đền linh thiêng không chỉ bởi truyền thuyết liên quan đến việc sinh nở mà còn bởi hậu cung có một tấm đá tự nhiên rất độc đáo: có hình một người phụ nữ đang mang thai. Du khách thập phương đến chùa đều mong một ngày được chạm tay vào “mẹ đá” để “xin” con. Theo quan sát của phóng viên, Thánh Mẫu Thạch Bàn là một khối đá nguyên khối cao khoảng 3m, rộng 5m, có hình dáng giống như một người phụ nữ đang nằm ngửa khi sinh con. Phía trên hòn đá là một vòng tròn tượng trưng cho một cái đầu. Hai viên đá tròn nhỏ bên dưới chắc là vú. Tiếp theo, hai miếng đá to và dài được xếp thành hình hai chân cong ở đầu gối. Giữa hai đùi là hai miếng đá nhỏ, tượng trưng cho “cánh cửa trí tuệ”. Một mảnh đá nhỏ nhô ra từ “cửa trí tuệ”, tượng trưng cho sự ra đời của thai nhi. Hai miếng đá còn lại bên ngoài là chân.
Vì thánh mẫu Thạch Bàn ở vị trí rất ‘nhạy cảm’ nên pho tượng đá được đặt uy nghi trong ngôi nhà 3 gian phía trong hậu cung, nhưng ngôi đền vẫn được che phủ bởi một tấm màn mỏng… Và đây cũng chính là lý do khiến chùa Không cho phép bất cứ ai chụp ảnh, kể cả phóng viên. Ngày xây dựng đền không rõ, nhưng đền Sinh có từ thời Lê sơ. Tương truyền, khu vực chùa từng có phong cảnh đẹp như tranh vẽ, người tài hoa, núi thông như núi, nước chảy trong suối, tôm cá lội từng đàn dưới đáy suối đỏ son, cát trắng. Xung quanh núi có nhiều tre trúc và nhiều tảng đá to như những chiếc chiếu nhấp nhô kỳ lạ.
Theo thần tích của đền: Vào giờ Dần ngày 5 tháng 8 năm 542, khi mặt trời khuất núi, đám trẻ chăn trâu đang tụ tập dưới chân núi Ngũ Nhạc (nay là chân đền Sình) chợt nghe tiếng trẻ con khóc bên sườn núi. . Chạy lại gần, bọn trẻ không thấy ai, chỉ thấy một đứa trẻ xinh xắn đang ngồi trên hai tảng đá lớn đã bị chẻ đôi, vết nứt rộng hơn một mét, đứa bé ngồi giữa vết nứt đó và khóc như chuông. . . Sau khi thấy sự việc lạ lùng, cả nhóm đã chạy đi thông báo cho người lớn làng bên. Các già làng vội vã chuẩn bị khăn, ô, cờ cho đứa trẻ. Trong khi đó, những đứa trẻ khôn ngoan của làng An Mô dùng tay làm kiệu, mũ làm ô, khăn làm cờ khiêng em bé về làng. Đi được vài trăm mét, bất ngờ trời mưa to, gió lớn, sấm chớp, cháu bé bay thẳng lên trời. Một lúc sau, từ trên trời có một giọng nói vang lên: “Ta là thần Phi Bồng”. Người dân địa phương bàng hoàng bảo nhau lập đền thờ. Địa điểm thứ nhất là nơi Thánh Mẫu Thạch Bàn sinh ra, có tên là Đền Sinh. Nơi Thánh Phi Bồng bay về trời gọi là Hoa Miếu. Hai ngôi chùa nằm cách nhau khoảng 800m, trong một không gian văn hóa tâm linh, nơi có nhiều cặp vợ chồng hiếm muộn đến cầu xin con cái.
Đền Sinh nổi tiếng linh thiêng về tục xin con, bởi còn có các truyền thuyết khác như “Ngọc phả thần”, “Phép lạ” (theo tài liệu của Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Khoa học xã hội Việt Nam). Câu chuyện huyền thoại về thần Phi Bồng được kể lại như sau:
Vào thế kỷ thứ 6, ở huyện Phấn Lôi (Yên Mô cũ) có một cặp vợ chồng già là ông Chu Thức và bà Hoàng Thị Ba, tuy chồng đã 61 tuổi, vợ đã 52 tuổi nhưng vẫn chưa có con. những đứa trẻ. Vợ chồng Chu Thục rủ nhau lên chùa sắm đủ lễ vật cầu trời sinh con. Khi họ đến cửa sau buổi lễ, họ đột nhiên nhìn thấy một dấu chân rất lớn. Chú Chu thử chân không vừa vặn, Ba Ba vừa thử vừa thấy thích thú hết cả người. Từ đó, trải qua bao ngày tháng Hoàng Thị Ba có thai. Một năm sau, vào ngày mồng 5 tháng 5 năm Giáp Ngọ, trời nổi cơn giông tố, mưa to gió lớn, mùi thơm tỏa khắp nhà, ánh sáng chiếu rọi cho đến khi Bà Ba hạ sinh. Đứa con khôi ngô tuấn tú tên Hiền, tự là Phúc Uy. Năm Phúc Uy 15 tuổi, cha mẹ đều qua đời. Chỉ có 3 tháng giữa cái chết của cha và mẹ. Phúc Uy để tang cha mẹ 3 năm, trong 3 năm đó trong nhà luôn có một lư hương để tỏ lòng thành kính. Thấy vậy, ai cũng khen vợ chồng Chu Thức có một người con hiếu thảo.
Năm Chu Phúc Uy 19 tuổi, bắc quân xâm lược. Lý Quý Long (sau là vua Lý Nam Đế) phất cờ khởi nghĩa ở Yên Hoa. Chu Phúc Uy liền tập hợp hơn 10 trai tráng trong vùng đi theo Lý Quý Long đánh giặc. Lý Quý Long nhận lời, phong Chu Phúc Uy làm đại tướng quân. Kháng chiến thắng lợi, Lý Quý Long lên làm vua, lấy hiệu là Lý Nam Đế, phong Chu Phúc Uy làm Vũ tướng quân, được giao trấn giữ Hải Dương. Về sau, giặc phương Bắc lại đến, vua Lý sai Chu Phúc Uy dẫn quân đi đánh giặc. Nhưng giặc phương Bắc lần này mạnh hơn lần trước, súng giương trời, cờ dưới đất. Chu Phúc Uy chặn giặc ở sông Thiên Đức, rồi rút quân về Việt Yên (Bắc Giang) và tử trận tại đây.
Về sau, đến đời vua Lý Thái Tông, về ở chùa Cổ Pháp, qua sông Thiên Đức, chợt mộng thấy có người nói: “Thiên hạ phong vân, nhà ta trung hiếu, danh thơm như tiên. sáng như mặt trời và mặt trăng.”. Khi đến nơi phát ra tiếng nói, không thấy ai, nhà vua chợt nhớ đến chiến công đánh giặc ở Lý Nam Đế năm xưa của Chu Phúc Uy. Vua liền về quê cũ của cha mẹ Chu Phúc Uy ở Yên Mô, sai tạc tượng, phát tiền lập đền thờ, dân làng được miễn sưu thuế.
4. Văn bản Cô gái Thạch Bàn:
Trong rừng ngàn côn trùng cao chót vót
Cảnh đẹp chùa Yên Mô
Lễ dâng Cô Bé Thạch Bàn
Lương cát ngày đưa chứng đây
Lầu Cô rợp mát bóng cây
Tầng cao tầng thấp, mây lưng chừng trời
Cúng bái bốn mùa đông vui
Người vô tận, người thời hương
Tinh thần anh hùng đã vang vọng
Phép thuật của Thần bảng tối
Động vật thức giấc dưới dòng nước chảy
Đá chồng cỏ mọc rêu
Bên triền đồi mái sim
Ríu rít tiếng chim gọi đàn
Cô đi dạo quanh đây trong Rừng Cấm
Tham quan chùa Phật Côn Sơn
Vượt ngàn suối trèo núi
Đến Vạn Kê chơi sông Lục Đầu
Có thời gian hồi cung Thái Hậu.
Cánh hoa hồng thực hiện quy tắc
Có giá ở tầng trên
Trăm gia đình đang gọi cửa chị
Thế gian hương khói tôn thờ
Nhất tâm tri ân nhờ phép thiêng
Miếu Mẫu là dấu chỉ của cảnh trống
Nơi vẫn ghi bàn thắng
Cô ấy cứu người không vì điều gì
Giàu thì cần một đống, khó thì một nén nhang.
Anh Linh Với Bé Thạch Bàn
Xin thế gian rộng lượng tha thứ
Nét dịu dàng trẻ trung
Dáng vẻ ngọc ngà, liễu rũ
Tinh thần anh hùng thì đúng hơn
Ngày đêm phụng sự Đền Thánh Đức Mẹ Chúa Trời
Nay môn đồ thành tâm đảnh lễ
Tôi xin bạn biến đổi cuộc sống của bạn
Thỉnh thoảng, cô dan dan gia dinh
Nơi ở của đệ tử là Khang Ninh, Long Thọ
5. “Làm ơn” giải thích theo Khoa học:
Tâm lý chung của những người hiếm muộn là “có bệnh thì vái tứ phương”. Ngoài ra, các cặp vợ chồng hiếm muộn thường rất mệt mỏi vì áp lực gia đình, việc điều trị kéo dài, đi lại nhiều, tốn kém tiền bạc, đặc biệt là phụ nữ vì họ sợ nếu không có thai thì chồng sẽ ngoại tình. Vì vậy, nhiều người đến đền chùa trước tiên để tìm sự bình yên trong tâm hồn. Ngoài ra, nhiều người còn quan niệm “con cái là quà của thượng đế” nên việc đến các đền, chùa để “xin” con cũng là điều dễ hiểu. Do đó, cân bằng tâm lý cũng rất quan trọng khi đối phó với hiếm muộn. Niềm tin bệnh sẽ khỏi, niềm tin mình sẽ được làm cha làm mẹ khiến tâm lý người hiếm muộn luôn thoải mái. Khi những người không có con tìm đến sự trợ giúp của y học cùng với niềm tin tâm linh để đạt được trạng thái cân bằng tâm lý, họ có thể dễ dàng thực hiện được mong muốn của mình.
Tuy nhiên, những gia đình hiếm muộn thường phải trải qua một quá trình hàn gắn. Vì vậy, có thai tự nhiên có thể xảy ra tình cờ với hiện tượng tự hết sau một thời gian điều trị, thuốc phát huy tác dụng. Vì vậy, mọi người không nên thần tượng hóa, đề cao và quá lệ thuộc vào nó hay phớt lờ những tiến bộ của y học hiện đại.
Chuyên mục: Bạn cần biết
Nhớ để nguồn bài viết: Cô Bé Thạch Bàn là ai? Sự tích và bản văn? Được thờ ở đâu? của website thcstienhoa.edu.vn