Ban Tam Bảo là gì? Ban Tam Bảo trong chùa gồm những ai?

Tam Bảo là cốt lõi của giáo lý và minh chứng Phật giáo. Nếu bạn chưa biết rõ về Tam Bảo thì đây là bài viết tham khảo về Ban Tam Bảo là gì? Tam Bảo trong chùa là những ai?

1. Bản Tam Bảo là gì?

Ban Tam Bảo hay còn gọi là Thượng điện hay Đại hùng bảo điện, gồm nhiều tượng Phật đặt trên các bệ theo thứ tự từ thấp lên cao, tượng trưng cho quá trình tu tập và giác ngộ của Đức Phật. Đó cũng là sự thể hiện những triết lý của đạo Phật.

2. Tam Bảo nghĩa là gì?

Tam Bảo là cốt lõi của giáo lý và minh chứng Phật giáo. Nói một cách đơn giản, Tam Bảo là Phật (trời), Pháp (địa) và Tăng (người). Phật Bảo là chỉ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, vị Thầy nguyên thủy chứng minh đầy đủ Phật Đạo, và cũng là chung cho tất cả chư Phật trong hư không, khắp Pháp giới, trong mười phương, ba thời, bốn ngàn pháp môn; Tăng đoàn, chỉ cho người xuất gia tu hành đúng theo pháp môn của đạo Phật, hoằng dương chánh pháp và cứu độ tất cả chúng sinh.

Tam Bảo được chia thành ba loại: Tam Bảo Hiện Tại, Tam Bảo Trụ Trì và Tam Bảo Nhất Nhất:

(1) Tam báu hiện tại: chỉ là ba báu khi Đức Thích Ca Mâu Ni còn tại thế. Tam Bảo thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni tại thế: Bản thân Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là báu vật của Đức Phật, giáo lý của Đức Phật là bảo vật vi diệu, và chư Tăng, đệ tử của Thích Ca Mâu Ni như Tăng Ni là Bảo vật của Tăng Bảo.

(2) Trụ Trì Tam Bảo: Tam Bảo của Phật giáo trong mọi thời đại sau khi Đức Phật nhập diệt đều là Trụ Trì Tam Bảo. Sau khi Đức Phật nhập diệt, có những tượng Phật được tôn thờ như Phật: tượng Phật bằng kim loại, bằng gỗ và bằng đá, hoặc tượng Phật được vẽ trên giấy, trở thành đối tượng tôn thờ của tín đồ. Những gì được coi là pháp khí là kinh sách viết trên lá cây, vỏ cây, vải, giấy v.v… Những người được coi là bảo vật của tu sĩ là các tu sĩ và tu sĩ như tăng ni, tức là tu sĩ hiện nay. Mặc cổ áo vuông và tròn. Sau khi Đức Phật nhập diệt, khi chưa có tượng Phật, thì có bốn nơi để tưởng niệm Đức Phật, tượng trưng cho sự tôn thờ Đức Phật. Đó là: Vườn Lâm Tỳ Ni, nơi Đức Phật đản sinh, Magadha, nơi Ngài thành đạo, Sarnath (Porona), nơi Ngài chuyển pháp luân lần đầu tiên, và Kusilla, nơi Ngài viên tịch; Những nơi khác mà Đức Phật đã đi qua cũng như cây bồ đề, bánh xe Pháp luân, chùa chiền, v.v… cũng được coi là những biểu tượng của Đức Phật để thờ phụng. Sau khi Phật diệt độ, xá lợi của Phật được tôn thờ như bảo vật của Phật, chùa xá lợi Phật được xây dựng ở nhiều nơi nên việc thờ cúng trong chùa trở nên phổ biến. Răng và tóc của Đức Phật để lại, cũng như bát Phật mà Đức Phật đã sử dụng, cũng được tôn thờ. Hài cốt của Đức Phật chứa các thánh tích được gọi là dhātu-gabbha, và bảo tháp của người Miến Điện phát triển từ dhātu-gabbha, dhātu-gabbha ở Ceylon. Các xá lợi, hài cốt, xá lợi và các biểu tượng khác nhau của Đức Phật (chẳng hạn như bảo tháp) ở trên đều được coi là một loại bảo vật của Đức Phật.

Xem thêm bài viết hay:  Phương thức biểu đạt là gì? Các phương thức biểu đạt văn bản?

(3) Tam Bảo Nhất Thân: còn gọi là ba ngôi báu trong một thân. Xem Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng từ quan điểm triết học, ba ngôi này nên được hiểu như một tổng thể hơn là riêng lẻ. Đức Phật tìm ra Pháp và hoằng pháp nên có Phật pháp. Nếu Đức Phật không hiểu Pháp mà thuyết giảng thì không có Phật pháp, nên Pháp phụ thuộc vào Đức Phật. Đức Phật thành Phật do khám phá Pháp, chứng ngộ Pháp và thể nghiệm Pháp, nên không có Pháp thì không có Phật. Tóm lại, cốt tủy của Phật là Pháp. Ngoài ra, người xuất gia là đại diện (biểu tượng) của Đức Phật, thay Đức Phật nói lời với mọi người, nên người xuất gia không thể tồn tại một mình mà không có Đức Phật và Giáo Pháp. Ngược lại, Đức Phật và Giáo Pháp phải dựa vào sự phổ biến và quảng bá của Tăng đoàn để thể hiện giá trị và ý nghĩa của chúng. Chỉ có Tăng đoàn mới thể hiện được sức mạnh của Phật và Pháp. Từ đây chúng ta thấy được mối quan hệ không thể tách rời giữa Phật, Pháp và Tăng. Vì vậy, Phật, Pháp, Tăng có mối quan hệ không thể tách rời nên gọi là Tam Bảo Nhất Thể. Đối với ba báu trên là “tam báu” mà chúng ta thường gọi là ba báu hiện tại trong lịch sử.

3. Tam Bảo trong chùa là ai?

Trong chính điện thờ Phật, điện Đại Hùng Bảo, Ban Tam Bảo được đặt trước hết qua ba thân của Đức Phật: “Pháp thân”, “Báo thân” và “Vận dụng thân”.

Lớp thứ nhất thờ “Pháp thân Phật”: Trên đỉnh tượng Tam thiên là ba ngàn vị Phật, trong đó Thiên (nghìn) là số chỉ có nghĩa là không thể đếm được.

Hàng tượng này gồm ba con phượng, có chung một dáng ngồi khoanh chân, điểm khác biệt là thủ ấn, bên trái là Quá khứ, bên phải là Tương lai, ở giữa là Hiện tại. .

Hạng thứ hai thờ “Báo thân Phật giáo”: Tượng A Di Đà là bản tuyên ngôn cho Phật giáo đại diện cho từ bi và trí tuệ. Trong đó, Phật A Di Đà ở giữa hiện tám tánh, phân thân hiện Quán Thế Âm Bồ Tát bên trái và Đại Thế Chí Bồ Tát bên phải.

Xem thêm bài viết hay:  Chúa Bắc Hà là ai? Sự tích và văn khấn lễ Phủ Chúa Bắc Hà?

– Tượng Phật A Di Đà (ngồi giữa) trong tư thế ngồi thiền, hai tay đặt giữa hai đùi, mắt nhìn xuống trầm tư, miệng mỉm cười và là tượng Phật được tạc lớn nhất. Đức Phật A Di Đà, vị Phật phương Tây cực lạc, chỉ có niềm vui mà không có nỗi khổ, tiếp dẫn những người có công đức đến thế giới cực lạc.

– Bồ tát Đại Thế Chí tay cầm hoa sen xanh đứng bên phải Phật A Di Đà, với vai trò hộ pháp giúp cứu độ chúng sinh cho Phật A Di Đà, tích thiện diệt ác. Đại Thế Chí Bồ Tát tượng trưng cho sự tinh tấn và ánh sáng trí tuệ như ngọn đèn sáng, nhìn rõ vực sâu tội ác.. Ngài là Đắc Đại Chí Bồ Tát, Đại Tinh Tấn Bồ Tát, Đại Thế Chí Chí Bồ Tát, hay Vô Lượng Quang Bồ Tát. Những danh hiệu này nói lên đại nguyện đại hùng, đại tinh tấn, ánh sáng trí tuệ chiếu soi tất cả chúng sinh, điều phục tham, sân, si, chuyển hóa phiền não. Các vị Bồ-tát đều từ bi, trí tuệ bình đẳng, phi phàm, là nhân thành tựu Phật quả.

– Quán Thế Âm Bồ tát, tay cầm cành liễu, đứng bên trái Phật A Di Đà. Quán Thế Âm Bồ Tát có một số tướng mạo như Quán Thế Âm vô úy, Quán Thế Âm nghìn mắt nghìn tay, Quán Thế Âm Nam Hải: là người luôn lắng nghe tiếng lòng tha thiết của chúng sinh để đến cứu khổ cứu nạn. Mang lòng từ bi, vị tha và thánh thiện, người yêu thương tất cả chúng sinh.

Hạng thứ ba thờ “Phật thân giả”: Tượng Thích Ca Mâu Ni hoa sen, Phật Thích Ca Mâu Ni ngồi giữa, tay cầm hoa sen, bên phải là A Nan, bên trái là Ma Ha Ca Diếp.

Lớp bốn: Tượng Tuyết Sơn được tạc khắc khổ, mắt trũng sâu, đầu hình hộp sọ, tứ chi gầy guộc, lộ rõ ​​cả xương. Nếp quần áo được kéo xuống nhưng vẫn có thể nhìn thấy những suy tư trong ánh mắt xa xăm và cơ thể thư thái.

Lớp năm: Bộ tượng Hoa Nghiêm Tam Thánh có từ thời Tây Sơn với tượng Phật Di Lặc ngồi chính giữa, hai bên là Bồ tát Pháp Hoa Lâm và Bồ tát Đại Diệu Tường. Ở một số chùa, hai bên là Văn Thù Bồ tát và Đại Hạnh Phổ Hiền Bồ tát.

Hạng sáu: Tòa Cửu Long ở giữa, bên trái là Đế Thiên và bên phải là Đế Thích được xây dựng theo mô hình Thích Ca sơ sinh. Chính giữa là tượng Thái tử Tất Đạt Đa đản sinh dưới hình hài một cậu bé với vẻ mặt trang nghiêm, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất. Xung quanh là chín con rồng liên kết với nhau tạo thành mặt khum, hướng ra ngoài, mô tả bầu trời.

Xem thêm bài viết hay:  Chuyển động cơ học là gì? Các dạng bài tập và lấy ví dụ?

4. Ý nghĩa Tam Bảo:

Thành tựu Phật đạo viên mãn là cơ duyên Phật bảo, hay nói cách khác Đức Phật nói là toàn bộ sức mạnh tinh thần và công đức trí tuệ mà Đức Phật đã phát huy từ khi thành đạo. Chư Phật đều có thân Phật, công đức của Phật là chân bảo của Phật. Tất cả chư Phật, kể cả ba đời quá khứ, hiện tại và vị lai, cũng như chư Phật đã thành Phật viên mãn ở mười phương đông nam, tây bắc và bốn phương.

Trong nhân gian có ba mươi bảy pháp môn tu tập, thuận tiện cho kho tàng pháp thanh tịnh nói trên, để chúng ta nhận ra pháp thân thanh tịnh.

Theo lời dạy của chư Phật đã nói ở trên, cư sĩ và tu sĩ chân chính là kho báu của Tăng đoàn.

5. Nguyện Tam Bảo:

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô A Di Đà Phật!

(Rồi lạy ba lạy).

Con lạy chín phương trời, mười phương chư phật, mười phương chư phật.

Đệ tử con xin thành tâm đảnh lễ chư Phật mười phương, chư Bồ Tát, chư Thánh Tăng, chư Hộ Pháp, chư Thiện Thần, chư Thiên Long Bát Bộ.

Hôm nay là ngày…..tháng…..năm Canh Tý

Chủ nợ con là:…………………….

Cư trú tại: ……………………

Thành tâm cúng dường bạc và địa vị (nếu ghi trên mâm cúng dường) lên cửa mười phương Tam Bảo thường trụ.

Chúng con xin thành kính đảnh lễ:

– Đức Phật A Di Đà là giáo chủ Tây Phương Cực Lạc.

– Đức Phật Thích Ca Mâu Ni là giáo chủ cõi Sa Bà.

– Đức Phật Dược Sư Lưu Ly là giáo chủ cõi Đông phương.

– Đức Thiên Thủ, Thiên Nhãn, Ngũ Trăm Trăm Trăm Trăm Trăm Trăm Mắt, cứu nạn cứu nạn, là điềm báo của Bồ Tát Quán Thế Âm.

– Kính lễ chư thiện thần hộ pháp, chư thiện bồ tát.

Con xin từ bi, che chở, độ trì cho con và nguyện được………….

Con nguyện các Ngài qua kỳ hội bạc phát tâm thành tâm chứng minh, chứng giám cho con vượt qua kiếp nạn, điều lành được hanh thông, điều dữ tiêu tan, tài lộc hưng thịnh, gia đình bình an. , trên và dưới. hòa bình, an lạc và thịnh vượng.

Con người chúng ta mắc nhiều sai lầm. Con cầu nguyện Đức Phật, Đức Thánh Từ Đại Từ Bi gia hộ cho chú (và gia quyến) được tiêu trừ tai nạn, mọi điều tốt lành, sở nguyện thành sự, sở nguyện thành sự thật.

Đạo hữu chúng con thành tâm lễ bái, cúi xin được che chở, độ trì.

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô A Di Đà Phật!

Nam Mô A Di Đà Phật!

(Rồi lạy ba lạy).

Chuyên mục: Bạn cần biết

Nhớ để nguồn bài viết: Ban Tam Bảo là gì? Ban Tam Bảo trong chùa gồm những ai? của website thcstienhoa.edu.vn

Viết một bình luận